THÚ VUI CỦA NGƯỜI GIÀ

Thứ Ba, 18 tháng 8, 2020

BÀI 50 – ĐÔNG TÂY Y KẾT HỢP – CÁCH ĐIỀU TRỊ TUYỆT VỜI

 

    Vì sao tôi thịnh đông y?

Người mắc bệnh ung thư như bị bản án tử hình thì người bị đột quỵ tai biến mạch máu não chẳng khác gì đeo thòng lọng trên cổ. Để chúng mất hiệu lực thì phải tìm con đường sống. Trỗi dậy trong hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy chỉ có thể nhờ vào Tây y, vì Tây y không những kéo dài sự sống, may ra, cuộc đời còn có thể làm lại. Cắt trọc đầu như trẻ con, đi, đứng, nói ngọng nghẹo, lệch mồm, méo mắt, lệch người, đi lại dạng chấm, phẩy…là những di chứng rõ nhất của các căn bệnh trên.

Đột quỵ và tai biến mạch máu não là tên gọi của cùng một bệnh. Nếu như thuật ngữ tai biến mạch máu não chỉ ra nơi khởi phát bệnh là tại các mạch máu nuôi não khi dòng máu bị chặn lại hoặc một mạch máu trong não bị vỡ, thì đột quỵ nói lên sự cấp tính của bệnh. Dù vậy, cả hai cách gọi đều biểu thị tính chất đột ngột, nguy hiểm của bệnh, có thể khiến một người đang bình thường bỗng dưng gục xuống, hôn mê, đối mặt với các di chứng tàn tật, thậm chí tử vong.

Đột quỵ là bệnh có thể xảy ra ở bất cứ ai, bất kỳ nghề nghiệp nào. Nhiều người cho rằng bệnh thường gặp ở người cao tuổi nhưng kể cả người trẻ hay thậm chí trẻ em cũng có thể bị đột quỵ, (nguyên do bệnh ở lứa tuổi trẻ phần lớn là từ dị dạng mạch máu bẩm sinh).

Bệnh tăng huyết áp (HA), tiểu đường, bệnh tim, bệnh mạch vành, nhồi máu não, rối loạn lipid máu, thiếu máu cục bộ tạm thời, hút thuốc và uống rượu, rối loạn lưu biến máu, béo phì,…đều là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đột quỵ.

Do diễn biến nhanh, nguy cơ gây tử vong cao nên việc chủ động phòng ngừa bệnh đột quỵ từ sớm là rất quan trọng. Đề phòng bệnh là nhiệm vụ trung tâm cho tất cả mọi người

  •  Sơ cứu

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đột quỵ bất ngờ. Điều đầu tiên cần làm đối với họ là nhẹ nhàng đưa bệnh nhân vào chỗ thoáng mát, cho nằm ở vị trí thuận lợi, cao ráo, đo ngay huyết áp, không được cạo gió khi chưa biết điều gì đã xẩy ra.

Nếu huyết áp cao từ 190/100 mmHg trở lên, thì tìm cách hạ HA bằng thuốc hạ HA. Cho uống ngay 1 viên An cung hoàn hoặc Ngưu hoàng thanh tâm hoàn.

Cũng có thể dùng phương pháp “Châm cứu thả máu”, trích máu từ 10 đầu ngón tay, dái tai bệnh nhân như người Đài Loan vẫn làm.

Người bị HA thấp, có số đo từ 90/60 mmHg trở xuống, không được uống An cung, Ngưu hoàng thanh tâm hoàn vì rất có thể mạch máu não vỡ thêm.

Ngoài ra còn có thể áp dụng “Bài thuốc xử lý người bị đột quỵ” được lương y Nguyễn Hữu Khai chia sẻ

Khi gặp người bị đột quỵ, không phải ai cũng có kinh nghiệm cấp cứu đúng cách cho bệnh nhân. Nếu không được kịp thời và đúng cách, người bệnh sẽ bị cướp đi thời gian vàng để sống sót, hoặc chí ít sẽ bị những di chứng nặng nề về sức khỏe.

Theo lương y Nguyễn Hữu Khai, nguyên TGĐ Tập đoàn Y dược Bảo Long, căn bệnh đột quỵ thường hay xảy ra lúc nửa đêm khi người bệnh tỉnh giấc đi tiểu bị choáng ngã rồi đột quỵ

Trong trường hợp này, người bệnh cần được can thiệp y tế càng sớm càng tốt, nếu để sau 3 - 4 giờ sẽ rất khó hồi phục.

Lương y Nguyễn Hữu Khai cũng lưu ý, trong tình huống này đương nhiên phải đưa bệnh nhân đi cấp cứu.

Nhưng nếu vì lý do nào đó như nhà quá xa cơ sở y tế thì có thể tiến hành cấp cứu tại nhà trước khi đưa bệnh nhân đến bệnh viện theo cách như sau:

- Lấy ngay một nắm lá ngải cứu tươi giã nhuyễn, cho nước đồng tiểu (nước tiểu của trẻ em) vào bóp đều rồi vắt lấy nước cho bệnh nhân uống.

- Cứ sau 2 - 3 giờ uống 1 lần, thường chỉ sau lần uống thứ 3 là bên chân tay bị liệt có thể cử động được. Sau đó vẫn cho uống tiếp ngày 3 lần vào các buổi sáng, chiều, tối. Uống 5 - 7 ngày.

- Để an toàn cho người bệnh thì sau khi chân tay cử động được rồi vẫn khẩn trương đưa tới bệnh viện.

Lương y Nguyễn Hữu Khai cũng lưu ý, mỗi nhà nên trồng một luống ngải cứu, ở thành phố có thể trồng trong chậu cảnh bởi ngải cứu rất cần để sử dụng trong nhiều tình huống cấp cứu cho sức khỏe.

Hèn chi hồi con nít, tôi thường được các mẹ, các chị săn đón nước tiểu đến vậy!

  • Cấp cứu

Vào viện, sau khi chụp CT Scan, và nếu huyết áp không kiểm soát được (HA tâm thu > 185mmHg hoặc HA tâm trương > 110mmHg) thì người bệnh phải truyền ngay:

       -  Thuốc Alteplase truyền tĩnh mạch với liều 0,9mg/kg

       - Tiêm bolus 10% tổng liều trong 1 phút, 90% thuốc còn lại truyền trong vòng 1 giờ.

 Người bác sỹ chân chính chẳng bao giờ “vòi vĩnh”, người nhà bệnh nhân biết điều, mời ê kíp ấm trà, uống vào thường trực minh mẫm cả đêm.

  • Điều trị

Một tháng điều trị, tôi đã tiêm 5 đợt đơn thuốc đắt tiền của Ý, Pháp

             Kemodyn – 1000 mg/ 4 ml 5 ống

             Gujcef (Ginkgo biloba) – hộp 10 ống.

Mỗi đợt 5 ngày. Vị chi 7,5 triệu đồng. Cả năm trời nhắc lại như thế với hy vọng cứu vớt cho cái đầu đột quỵ.

  • Tái phát

Khốn thay, năm sau, vẫn bị tái phát, đầu óc lại như muốn vỡ, nhà cửa quay cuồng, đất trời chao đảo, nôn mửa liên tục và ói ra mật xanh mật vàng. Lại cấp cứu, lần này các bác sỹ chẩn đoán hội chứng tiền đình, thiểu năng tuần hoàn não. Ngay lập tức, Tanganil 500 mg 2 ống được tiêm tĩnh mạch. Hôm sau, ăn sáng 10’ nôn mửa lặp lại, tái diễn đến ngày thứ 3 mới kết thúc.  

Theo thống kê của Hội Phòng chống tai biến mạch máu não, tại Việt Nam mỗi năm có khoảng 200.000 người mắc đột quỵ và 50% trong số đó bị tử vong. Những bệnh nhân đột quỵ não còn sống sót thì có tới 92% mắc di chứng về vận động. Những di chứng nặng nề đó đã khiến người bệnh trở thành gánh nặng không chỉ đối với bản thân, gia đình mà còn ảnh hưởng đến cả xã hội.

5 người vào viện cùng tôi, lần lượt ra đi. Thế là tôi đi tìm cách phòng chống bệnh cho mình, cách xử trí khi đột quỵ, giúp ích gì chăng cho tất cả mọi người.

                                       TÁI PHÁT LẦN 3

 ĐỘT QUỴ-TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THẬT LÀ QUÁI ÁC

Hà Nội mùa nắng nóng. Trời như đổ lửa, có những ngày nhiệt độ tới 40-43 độ C. Các bệnh nan y phát triển. Ngay cả người đốt lò, cho những 28 củi tươi, nhiều gỗ gộc khác cũng bị cơn gió chướng làm cho sổ mũi, nhức đầu…gục ngã, đến những người nông dân, chân lấm tay bùn, bất ngờ đột quỵ. Mặc dù đã chủ động phòng ngừa, nhưng vẫn tái phát lần thứ 3. Đột quỵ, tai biến mạch máu não, nếu đã xảy ra, thì phải chấp nhận ‘sống chung với lũ’, có người tái phát 7 lần nhưng di chứng tay, chân không hề mất. Lần 3 cấp cứu. Từ phòng cấp cứu lên Đơn nguyên Đột quỵ, 4 tầng mà mất 5 tiếng rưỡi. Mỗi tiếng qua đi hàng triệu Notron thần kinh đã bị phá hủy. Tôi tự hỏi, hay là xe đấy lâu ngày không được bôi trơn, cọt kẹt lâu vậy? Thương thay, những người cơ nhỡ, không nơi nương tựa, hoặc vì lý do gì đó, không người thân đi theo. Khổ cho các em thực tập, lẽo đẽo một mình, đẩy xe đưa bệnh nhân cấp cứu. Một hình ảnh đẹp.

Vẫn 3 nguyên nhân dẫn đến đột quỵ: - Méo miệng, lệch mồm. – Ngôn ngữ lắp bắp, không thể nói được câu khó ‘Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch’, hay là ‘nhãn cành la, na cành bổng’. – Tay, chân giật giật, giơ lên hạ xuống khó khăn… Vào viện, ngay lập tức, một ống Cerebrolysin 10 ml được tiêm tĩnh mạch. Huyết áp giảm, huyết thanh và các loại thuốc tự mua gateam Đài Loan, Gijeton 17,5mg/5ml - Thuốc điều trị rối loạn tuần hoàn não hiệu quả của Hàn Quốc, hoặc thuốc BHYT chi trả một nửa selawar injection 100 ml truyền tĩnh mạch. Nằm viện mới thấu hiểu xã hội còn biết bao điều ngổn ngang. Người bệnh kể nhau nghe chuyện nhân tình thế thái, chuyện khốn nạn như ở xã hội xa lạ. Sao mất cắp nhiều thế. Đi xe BUS bị móc túi đã đành, đến vào viện (TN) này, sáng mở mắt ra đã có người kêu mất đến 6.5 triệu đồng. Có vợ chồng nọ đưa nhau chờ đẻ, nằm ở ngay Camera quan sát, tỉnh dậy mất cả 2 điện thoại thông minh. Trớ trêu thay, người ta không cho vợ chồng anh truy xuất dữ liệu lưu trữ (?). Đấy là những người “NẰM VIỆN” ở phòng “điều trị theo yêu cầu”, mình một giường, những người đi “NGỒI VIỆN”, 2,3 thậm chí 4 người 1 giường chắc cũng như vậy cả thôi. Người ta đã biến nhu cầu (tối thiểu) của con người thời công nghệ 4.0 thành phương tiện để kinh doanh. Lắp thêm cái điều hòa nhiệt độ, cũng chẳng có tủ lạnh, TV, máy nước uống tự động, WC thì ra công cộng, chẳng có Wi-Fi, Intrernet mà vẫn trả phí 150.000 đ / 1 đêm . Đầy đủ ư, 250 đến 400 ngàn nhé.

Người nông dân cần mẫn, chân chất làm ăn, hai sương một nắng. Có ai ngờ “sáng tạo” phong trào “Rau hai Luống, Lợn hai Chuồng” để cả làng ăn hóa chất. Than ôi, ta lại triệt ta! Có những người bất hạnh, đột quị chết ngay dưới nách vợ, để rồi con phải “cưới vợ chạy tang”. Xác bố mắc màn đi ngủ cả ngày cho con tổ chức đám cưới sáng nay, ngay sân nhà vì giấy mời đã gửi và bữa cỗ đã sẵn. Cũng có người chẳng tin bói toán, cho con cưới vợ với tuổi xung khắc dần, thân, tị, hợi “tứ hành xung” …. Đôi khi, người vợ lấy phải ông chồng nát rượu, cờ bạc, vũ phu không chỉnh sửa. Một bà vợ lăng loàn, chửi chồng con như hát hay, thì ly dị cho xong. Ở một mình, độc thân còn hơn, tội con cái bơ vơ cha mẹ. Một tình yêu cao cả, chân chính sẽ vượt qua tất cả. Gia đình là cái nôi hạnh phúc. Chỉ có vợ, chồng, con cái mới cùng ta đi cho đến hết cuộc đời. Hãy giữ mãi mái ấm gia đình hạnh phúc. “Một điều nhịn, chín điều lành” đó bạn. Anh em tranh nhau nuôi bố, mẹ, phụng dưỡng tuổi già. Con cái không bỏ rơi bố mẹ, một gia đình có phúc.

Nằm viện, tôi được chụp, chiếu 9 phòng. Từ đơn giản máy quét Vi tính đến cắt lớp nhiều màu (máy hiện đại nhất hiện nay). Nhưng máy móc, dù hiện đại đến đâu, không thay thế được con người. Phán đoán sai thì cho thuốc, bệnh nhân trở thành vật thí nghiệm. Lại nữa, tình trạng phục vụ bệnh nhân cũng có nhiều việc phải bàn.

Y tá, Điều dưỡng viên đi một vòng, đưa thuốc, tiêm chích VEN cho bệnh nhân, hết thuốc rồi mà cả giờ sau mới tới rút kim. Bác sỹ khám bệnh, lục vấn bệnh nhân như tội phạm…Xem ra, câu nói ngàn xưa “Lương y như từ mẫu” vẫn phải phấn đấu dài dài. Ngành BHYT còn nhiều lỗ hổng, dẫn đến BHXH thất thoát còn lâu mới bịt được.

Ra viện, mỗi bệnh nhân nhận 1 đơn thuốc điều trị bổ sung.

Brocere (Tinh chất từ não lợn); Copedina (clopidogren 75 mg); Cerecozin (Citicolin). Đơn thuốc này không phù hợp với tôi, vì sử dụng 5 ngày, tôi trở thành bệnh nhân mới: Cả 5 ngày Mất ngủ. Nó chỉ phù hợp với những ai bị Bệnh Mỡ máu, Dạ dày, Tiểu đường, Alzheimer. Cả 4 bệnh này tôi đều không có.

Quay lại phác đồ cũ đã cứu tôi sống xót trên cõi đời:

       Bước 1:  Khi huyết áp vượt quá độ 3, nghĩa là có chí số vượt ngưỡng 140/100 mmHg, phải uống ngay 1 viên huyết áp. (Loại phù hợp với mình);

       Bước 2:  Khi các dấu hiệu đột quỵ xuất hiện, nhà cửa quay cuồng, điên đảo. Đầu óc như muốn vỡ ra, đó là biểu hiện hội chứng tiền đình, thiểu năng tuần hoàn não. Tiêm VEN ngay lập tức Tanganil 500 mg/5 ml (Khẩn cấp 2 ống);

       Bước 3: Tiêm ngay 1 ống bổ não Cerebrolysin 10 ml. (Có thể bổ não loại nào cũng được – Bác sỹ đều biết);

 Làm 3 bước trên là bạn đã tự CẤP CỨU cho mình. Chú ý rằng, bạn vẫn đi cấp cứu ngay, vì chỉ có các cơ sở y tế chính thống mới có đủ khả năng, trình độ cứu chữa bệnh cho bạn. Vào viện, dù bị bỏ quên đến cả ngày sau cấp cứu, bạn vẫn an toàn cho cái đầu của mình;

       Bước 4: Truyền tĩnh mạch Selawar injection 100 ml ngày 1 ống. Chóng bình phục 5 ống, lần sau cứ leo thang dần lên 10, 15 ống….

Tiêm thêm các loại bổ não Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Đài loan, Hàn Quốc….Loại này đắt tiền, hoàn toàn tự trả. Đã vào viện thì chi tiêu như rác. Đừng lo, có sức khỏe là có lại tất cả.

Khỏi bệnh, rũ bỏ quần áo viện, bệnh nhân trở thành những hoàng hậu, công chúa. Bộ áo trắng tinh khôi, cổ cồn thời thượng, bó sát người với cái quần đen, vải lụa cách tân với mái tóc ngang lưng. Tuổi già trên má nhăn nheo nhưng đôi mắt vẫn nâu huyền mộng mơ. Bóng dáng thanh lịch, kiều diễm vẫn còn. “Hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” – thơ Nguyễn Bính – Em trở thành nàng thơ trong mắt ai! Bây giờ hiện đại lắm, một bước Taxi đưa ta tới tận nhà. Công lao ấy, thuộc về Bác sỹ, Y tá, Điều dưỡng viên…chữa cho ta khỏi bệnh, cũng là khen ta cấp cứu kịp thời. Khen cho chính sách “Nông thôn mới”, biến giao thông thành phúc lợi cho mọi người. Nhiều gia đình vui như hội. Anh em, bạn bè…hẹn gặp nhau, giết gà ăn mừng. Còn tôi, giờ thì đã hiểu “Bác sỹ tốt nhất là chính mình”.     

  • Các thuốc Tây y giúp sức

Các thuốc Tây y dùng trong dự phòng bao gồm các thuốc chống đông và thuốc chống kết tập tiểu cầu. Thuốc có lợi ích dự phòng lâu dài cho nhiều nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đột quỵ bao gồm rung nhĩ, tình trạng tăng đông... Tuy vậy, các thuốc này không làm tiêu cục máu đông và không thể tái lập nhanh tưới máu não trong giai đoạn cấp. Các thuốc chống đông kết tập tiểu cầu chủ yếu bao gồm:

- Aspirin: Với bệnh nhân có tiền sử gia đình có nguy cơ mạch máu cao (tiền sử đột quỵ, nhồi máu cơ tim, bệnh động mạch ngoại vi, đái tháo đường) dùng aspirin giảm được nguy cơ xảy ra đột quỵ não và tim xấp xỉ 19%; với bệnh nhân có cơn thiếu máu não thoảng qua hoặc đột quỵ thiếu máu não trước đó, dùng aspirin giảm được xấp xỉ 19-23% đột quỵ tái phát trong 3 năm. Tác dụng không mong muốn chủ yếu của aspirin là gây biến chứng chảy máu đường tiêu hoá. Nên nhớ, người bị sốt xuất huyết, không được uống Aspirin. Uống có thể dẫn đến tử vong.

- Dypiridamol: Thuốc giúp giảm nguy cơ đột quỵ ở bệnh nhân có tiền sử gia đình có nguy cơ mạch máu và ở bệnh nhân có cơn thiếu máu não thoáng qua hoặc đột quỵ trước đó xấp xỉ. Dypiridamol không gây biến chứng chảy máu tiêu hoá nhưng gây đau đầu, trong một số trường hợp người bệnh không tiếp tục điều trị thuốc này được.

- Aggrenox: Là thuốc kết hợp aspirin và dypiridamol, thuốc làm giảm tác dụng không mong muốn của aspirin và tăng hiệu quả điều trị dự phòng gấp 2 lần dùng aspirin đơn độc. Nghiên cứu dự phòng đột quỵ châu Âu cho rằng, phác đồ kết hợp giữa aspirin và dypiridamol là sự lựa chọn dược lý hứa hẹn để giảm nguy cơ tái phát đột quỵ.

- Clopidogrel: Thuốc làm giảm nguy cơ tái phát đột quỵ ở bệnh nhân có tiền sử thiếu máu não thoảng qua hoặc đột quỵ thiếu máu não cục bộ. Thuốc ít gây biến chứng chảy máu tiêu hoá so với aspirin.

- Rutozym: xuất sứ từ Mỹ

 Công dụng

- Làm tiêu những sợi huyết trong cục máu đông (Fibrosis) là nguyên nhân gây tắc mạch. Giúp máu lưu thông dễ dàng trong huyết quản.

 - Làm loãng máu, giảm độ cô đặc của máu, giảm ma sát với thành mạch, giúp bệnh nhân tránh được tắc nghẽn mạch, phòng tránh nhồi máu cơ tim.

 - Tăng sức bền thành mạch, giảm sự kết dính của tiểu cầu, phòng tránh hình thành các huyết khối.

 - Thuốc Rutozym giúp phân hủy và giải độc các chất cặn bã, chất thải độc hại trong cơ thể giúp bài tiết ra ngoài. Cung cấp các chất bổ dưỡng cần thiết cho các cơ quan hoạt động hiệu quả hơn.

 - Thanh lọc huyết tương, hỗ trợ hệ thống bạch huyết, tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể.

 - Tăng cường các quá trình chuyển hóa, tăng tốc độ các phản ứng giúp tạo năng lượng nhanh củng cố chức năng các nội tạng hoạt động đáp ứng tốt với mọi stress.

 - Có tác dụng chống viêm và giảm đau hiệu quả như kìm hãm quá trình viêm, tấy các vết thương, giảm đau nhức nên không cần phải dùng các thuốc giảm đau khác như nhóm hạ sốt, chống viêm, giảm đau không corticoid (có rất nhiều tác dụng phụ).

Những ai nên dùng thuốc Rutozym:

- Những bệnh nhân có triệu chứng liên quan đến các bệnh tim mạch.

- Những người bị cao cholesterol máu (mỡ máu) nguy cơ gây tắc nghẽn mạch.

- Những người bị cao huyết áp, nguy cơ tắc nghẽn mạch vành, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch não.

- Những người quá béo phì, nghiện thuốc lá. Những người hay lo lắng, buồn phiền, suy nhược, quá nhiều stress cũng dễ bị nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch.

- Những người bị bệnh tiểu đường, biến chứng của tiểu đường về tim mạch và suy thận.

Lưu ý: các bệnh nhân đang dùng các thuốc làm loãng máu, không nên dùng Rutozym. Tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.

Hướng dẫn sử dụng: 

Uống mỗi ngày hai (2) lần, mỗi lần hai (2) viên.

Để đạt được hiệu quả tối đa, nên uống thuốc với nước lọc tinh khiết khoảng 30 phút sau mỗi bữa ăn trưa và tối.

Không được nhai hoặc cắn nhỏ viên thuốc.

Phải nuốt cả viên thuốc thì thuốc mới có tác dụng vì viên thuốc được bọc một lớp vỏ bảo vệ bên ngoài để bảo vệ các hoạt chất của thuốc khi đi qua dạ dày không bị phá hủy bởi dịch vị dạ dày.

Khi thuốc vào đến ruột non, các hoạt chất của Rutozym mới được giải phóng ra và hấp thụ hoàn toàn vào máu để phát huy tác dụng và chữa bệnh.

  • Các thuốc y học cổ truyền có sẵn

- Hoa đà tái tạo hoàn có tác dụng khu phong khai khiếu, hoạt huyết hoá ứ, tiêu sưng tán kết. Thuốc đã được nghiên cứu thực nghiệm trên động vật (thỏ, chó, mèo, chuột) nhận thấy thuốc làm tăng lưu lượng động mạch cảnh gốc và động mạch cảnh trong, làm tăng cường tính co bóp của cơ tim. Thuốc cũng đã được nghiên cứu thử nghiệm trên lâm sàng cho bệnh nhân sau đột quỵ não (cả đột quỵ chảy máu và đột quỵ thiếu máu não) và đã được xác định có sự cải thiện rõ lưu lượng máu não của bệnh nhân, giảm độ quánh máu, giảm chỉ số kết tập tiểu cầu, cải thiện khả năng biến dạng hồng cầu.

- Luotai có tác dụng làm bền vững thành mạch máu, cải thiện vi tuần hoàn, tác động vào quá trình đông máu, giảm đau và chống viêm.

- Hoạt huyết dưỡng não cũng có tác dụng cải thiện lưu lượng máu não.

Tóm lại, đột quỵ não là một trong những bệnh lý tạo ra gánh nặng cho gia đình và xã hội vì chi phí điều trị cho đột quỵ não rất cao và tỷ lệ tàn phế rất nặng. Tuy nhiên, đột quỵ não là một bệnh có thể phòng bệnh được khi chúng ta phát hiện và điều trị sớm các yếu tố nguy cơ gây ra bệnh đột quỵ tai biến mạch máu não. Một khi đột quỵ đã xảy ra, bệnh nhân cần được đến bệnh viện, vào các trung tâm đột quỵ để điều trị kịp thời giảm tỷ lệ tử vong và tàn phế.

  • Còn đây là các loại Thực Phẩm Chức Năng (TPCN)

1- OTIV chứa các hoạt chất sinh học quý được tinh chiết từ Blueberry có tác dụng tăng cường dưỡng chất cho não, trung hòa các gốc tự do, bảo vệ và chống lão hóa các tế bào thần kinh não. Người thọ 70 tuổi, đã có 17 Tấn gốc tự do được sinh ra, vì vậy, rất cần OTIV để trung hòa chúng, gan lọc, đào thải khỏi cơ thể..

- Giúp phòng ngừa và hỗ trợ điều trị tình trạng xa sút trí tuệ, suy giảm trí nhớ, bệnh Alzheimer.

- Phòng ngừa và giúp hỗ trợ điều trị các bệnh lý mạch máu não: đau nửa đầu, thiếu máu não, tai biến mạch máu não có liên quan đến xơ vữa mạch máu.

- Giúp hỗ trợ điều trị stress

- Duy trì khả năng thính giác và thị giác.

Cách sử dụng Otiv:

- Ngày uống 1 viên

- Nên dùng thường xuyên

Sản xuất tại: Công ty ST.PAUL BRANDS

11555 Monarch, Garden Grove, CA 92841, Mỹ

Số đăng ký: 3042/2013/ATTP-XNCB.

2- NATTO KINAZE DX Chiết xuất đậu tương lên men để phòng tránh được các bệnh tim mạch dẫn đến nguy cơ đột quỵ..

Xuất xứ: AISHODO Nhật Bản

  - Phá được các cục máu đông (Giảm Nguyên nhân tai biến)

  - Giúp tuần hoàn máu. (Đưa máu lên não làm giảm chứng hay quên của người già do thiếu máu não, giảm chứng mệt mỏi, suy nhược ở người bình thường và những người bị tim mạch)

  - Hạ đường huyết, điều hòa tốt đường huyết cho người tiểu đường.

  - Hỗ trợ phòng ngừa tai biến và các di chứng của nó và các bệnh liên quan đến tắc nghẽn động mạch, nhồi máu cơ tim.

 3- Dạng khác: NATTOSPES - Sản phẩm chứa thành phần chính là enzym nattokinase – dẫn đầu trong hỗ trợ điều trị đột quỵ não

Hiện nay, nhiều người đang sử dụng các sản phẩm nguồn gốc thiên nhiên, an toàn, hiệu quả bền vững để phòng ngừa, hỗ trợ điều trị đột quỵ não. Trong đó, các sản phẩm chứa thành phần chính là enzym nattokinase được đánh giá cao. Đặc biệt, những sản phẩm có nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh hiệu quả luôn được các bác sĩ cũng như bệnh nhân tin tưởng lựa chọn. Nattokinase - một loại enzym được chiết xuất từ đậu tương lên men theo phương pháp truyền thống của Nhật Bản, giúp ngăn chặn và phá được các cục máu đông – tác nhân cơ bản gây đột quỵ não. Do vậy, nó có tác dụng hỗ trợ điều trị, phòng ngừa và ngăn chặn đột quỵ não tái phát, đẩy lùi di chứng...

·         Tìm đến bài thuốc dân tộc cổ truyền

Sau tái phát lần thứ nhất, tôi cuống cuồng tìm đến bài thuốc “đắp chân phòng chống đột quỵ tai biễn mạch máu não”. Thật tuyệt vời, tôi đã không bị căn bệnh này đánh gục. “Hữu xạ tự nhiên hương”, nhiều người trở lại lấy thuốc đắp lần 2, lần 3…thậm chí lấy thuốc đắp cho ông, bà, bố, mẹ, con cái và cả họ, cả làng. Hiếm thấy bài thuốc nào có tiếng vang và hữu dụng đến thế. Bài thuốc trường tồn mãi mãi. Thiết nghĩ, trăm năm nữa trẻ con chết hết thì lại có lớp trẻ con khác lên thay. Bạn có biết không, mới hôm nào còn vang lên “25 triệu con cháu Lạc Hồng Nam, Bắc, Trung”, hôm nay, 60 năm sau, 90 triệu dân lại bị thay thế bởi con số trên dưới 100 triệu rồi đó. Dân số tăng chóng mặt, quá nửa đời người, Việt Nam tăng dân số gấp 4 lần. Sức ép về việc làm, công nghiệp, an sinh xã hội, mở mang bờ cõi…tăng lên gấp bội phần, trong đó Y tế và sức khỏe, song hành, đòi hỏi xã hội và từng con người biết bổn phận. Vì thế, bài thuốc này đáng được khuếch trương.

Người ta còn kết hợp bài thuốc “đắp chân phòng chống đột quỵ tai biến mạch máu não” với các bài thuốc khác:

   - Nhân dân dùng huyết giác – vị thuốc xay ra có màu đỏ nên gọi là huyết - chữa những trường hợp ứ huyết, bị thương, máu tím bầm không lưu thông. Dùng cho cả nam và nữ, đối với nữ còn dùng khi kinh nguyệt bế. Liều dùng ngày 10-20g dưới dạng thuốc sắc, ngâm rượu uống và xoa.

  - Kết hợp huyết giác với củ cải. liều lượng bằng nhau (10-20 g), xay mịn, đắp và buộc vào ngay chỗ đùi bị huyết ứ (có màu hồng, đỏ) qua đêm gỡ bỏ.

  - Trường hợp cũng huyết ứ như vậy nhưng có màu trắng, thì phải dùng 50 g lá tía tô, xay, giã mịn đắp vào chỗ đau, vài lần cũng khỏi.

Cùng huyết ứ, đau nhức như nhau, nhưng 2 thể bệnh khác nhau, 1 thì nóng, 1 thì lạnh, nên có 2 cách đắp bằng các vị thuốc khác nhau. Điều đó không lạ - bí quyết gia truyền mà. Người có máu lạnh thì điều trị khác với người máu nóng.

Bài thuốc “đắp chân phòng chống đột quỵ tai biến mạch máu não” không phải đến giờ mới có. Ngày tôi còn chăn thả trâu bò tại quê hương, bố tôi thường dặn, nếu bờ tre, gốc dứa nào có quả dành dành chín thì hái mang về, phơi sấy khô, tích lại, để gác bếp, khi nào có chú Khách đến mua thì bán. Đầy 2 bị thì ngược, Chú Khách ấy chính là thày lang người Trung Quốc. Dành dành chính là Chi tử - một vỵ của thang thuốc này. Nó được người Trung Hoa phát hiện và đem ra điều trị từ rất sớm. Theo “Cổ Phương Thần Dược Trung Hoa” thì bài thuốc nguyên gốc như sau:

“Đào nhân, Hạnh nhân mỗi vị 12g, Chi tử 3g, Hồ tiêu 7 hạt, Hạt quýt 14 hạt, tất cả nghiền nát trộn với lòng trắng trứng, mỗi đêm phết vào huyệt Túc tam lý và huyệt Dũng tuyền để trị bệnh cao huyết áp”.


Bài thuốc trên sau đó đã lan truyền đến châu Âu, không riêng người châu Á mà cả người phương Tây cũng áp dụng.

Một số người nhận được kết quả thật tuyệt vời, đúng như thần dược, một số khác không thấy thay đổi đáp ứng gì, và một số ít thậm chí có tác dụng ngược lại, làm xấu thêm tình trạng sức khỏe của họ.

Tại sao như vậy? Chúng ta cũng biết vì đâu phải ai cũng giống ai, mỗi người bệnh trạng khác nhau, cơ địa khác nhau, nên hiệu quả cũng khác nhau là điều đương nhiên.

Khi nghiên cứu ứng dụng bài này, chúng tôi ghi nhận với những người cao huyết áp, cho hiệu quả rất tốt. Nó giúp hạ huyết áp chỉ sau 2 lần áp dụng cách nhau 1 tuần, sau đó một tháng áp dụng lại thì thấy huyết áp ổn định luôn.

Cứ lặp lại mỗi tháng áp dụng 2 lần bài này thì có thể kiểm soát huyết áp khá tốt. Có một số trường hợp ngoại lệ cần phối hợp thêm thuốc, tuy nhiên cũng giảm được liều thuốc cho bệnh nhân.

Những trường hợp suy thận, hẹp động mạch thận hai bên thì bài này không cho kết quả gì, nếu chỉ trông mong vào một mình nó thì tình trạng cơ thể sẽ nhanh đi đến trầm trọng. Cần can thiệp hỗ trợ phục hồi suy thận trước khi áp dụng bài này cho họ.

Bài thuốc chỉ sử dụng bôi ngoài da trên hai huyệt này, nhưng do tác động trên hai huyệt chủ đạo của huyết áp nên cho hiệu quả khá tốt.

  • Kết hợp điều trị với Tây y

Đông, Tây y kết hợp để điều trị là phương pháp tốt nhất cho người bệnh. Cấp cứu thì Tây y là lựa chọn số 1, phục hồi thì phải nhờ tới Đông y. Bản thân tôi đã bị đột quy tai biến mạch máu não tàn phá, 4 năm trời chống chọi, chịu đựng đủ loại khổ đau vật chất, tinh thần. Tìm được bài thuốc “đắp chân phòng chống đột quỵ” mới tránh khỏi tái phát. Tuy nhiên, vẫn dự phòng:

        -Một vỉ thuốc huyết áp; (loại phù hợp với mình)

        -Tanganil 500 mg 1 vỉ 10 viên, hoặc thuốc tiêm cùng loại 1 hộp 5 ống. (Thuốc tiêm tĩnh mạch tốt hơn).

        -Effeeralgan 500 mg  1 vỉ 4 viên sủi.

Những khi đi xa, uống 1 viên huyết áp dự phòng. 3 tháng 1 lần, uống 5 ngày, 5 viên tanganil 500 mg, (hoặc tiêm tĩnh mạch 2 mũi / 2 ngày). Những lúc giây thần kinh giật, giật làm đau nửa đầu, thì uống ngay viên sủi efferalgan 500 mg. Trừ huyết áp, thuốc dùng được cho tất cả mọi người. Mỗi đợt thuốc, uống cách nhau ít nhất 4 tiếng. (Chú ý: dùng Effeeralgan 500 mg nhiều, có thể gây hại cho gan, thận).

Để kết hợp điều trị, độc giả có thể dùng một trong hai bài thuốc Nam

1/Bài thuốc trị tai biến mạch máu não 1: Địa long phơi khô, đậu đen cộng với lá rau ngót phơi khô rồi sao vàng cho nước vào sắc lấy độ nửa bát chia làm 2 lần cho bệnh nhân tai biến uống. Với những bệnh nhân bị tai biến chưa quá 10 ngày chỉ cần khoảng 3 thang là có thể phục hồi.

2/Bài thuốc trị tai biến mạch máu não 2: Thiên ma 100g, não lợn một bộ làm sạch cho vào bát, đổ nước vừa đủ, hấp cách thủy. Mỗi ngày hoặc cách ngày ăn một lần. Có hiệu quả chữa bán thân bất toại do tai biến mạch não.

  • Những điều lưu ý:

  - Người Đài Loan “Châm cứu thả máu” để sơ cứu đột quỵ, dân gian Việt Nam cũng đã dùng kinh nghiệm này từ lâu. Chỉ một điều

Chú ý: Việc dùng kim châm 10 đầu ngón tay nặn máu trong Đông y chỉ đúng với một vài trường hợp bất tỉnh do trúng phong chứ không phải tất cả các trường hợp đột quỵ, do đó không nên để mất thời gian vào những việc không hiệu quả này mà mất đi thời gian vàng cứu sống người bệnh. Cứ 1 phút trôi qua mà người đột quỵ không được điều trị sẽ có 2 triệu nơron thần kinh bị chết đi và tương ứng là sự tàn phế khó hồi phục. Điều này lý giải nếu để muộn không được cấp cứu kịp thời thì tổn thương não càng nặng và càng khó hồi phục.

    Chỉ có 3 giờ vàng để đưa nạn nhân đột quỵ tai biến mạch máu não vào viện cấp cứu.

    - Uống thuốc nhưng vẫn phải lắng nghe cơ thể

 Cả gia đình tôi đã được Trung tâm chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng, khám và cho tôi kết quả:

 - HA 140/85 mmHg;

 - Thiếu Canxi lên vệt đen dài

 - Thiếu Kẽm lên chấm trắng

 - Thiếu Selen lên chấm đen

 - Lượng nước cơ thể: 59 %

 - Lượng mỡ nội tạng: 14 – nguy hiểm

 - Lượng xương trong cơ thể: 2,9 kg trong trọng lượng 65 kg.

Cuối cùng, ra cái đơn thuốc (thực ra là đơn TPCN):

 - Goldcancium – Vitamin D3 canxi: 2 viên ngày. Sáng uống 1, chiều 1

 - Omega369: 2 viên ngày, sáng 1, chiều 1

 -Tảo xoắn: 10 viên / ngày. Sáng 5, chiều 5.

Với lời dặn: Người thừa cân uống trước bữa ăn 30’. Người thiếu cân, gầy yếu uống sau ăn 30’.

Giá trị cái đơn 300.000 đ X 3 lọ = 900.000 đ. Cả gia đình mua 1.800.000 đ.

Theo đơn, gia đình uống đến ngày thứ 3 thì ôi thôi: vợ, con gái chóng mặt, loạng choạng muốn ngã; tôi thì táo bón đứng ngồi không yên, có đến 3 giờ ngồi trong nhà WC. Chỉ Omega369 là còn dùng được.

Quay lại với kinh nghiệm dân gian. Uống ngay 1 cốc bột sắn dây 200 ml, 1 mớ rau dấp (diếp) cá 5.000 đ / ngày, ăn trong bữa ăn hoặc say sinh tố uống nước, cho thêm chút đường cho dễ uống. Hiệu nghiệm bất ngờ, giải quyết ngay các hậu quả mà cái đơn trên mang tới. Các hộp thuốc vất lăn lóc xó giường. Tự hỏi thày thuốc có bán mình cho tiếp thị hay không?

Tất nhiên, do cơ địa khác nhau, có thể có người hợp với đơn này. 

   - Không được kết hợp thực phẩm với thuốc

Sự kết hợp không đúng giữa thức ăn và thuốc có thể gây tai họa và tạo ra gánh nặng cho cơ thể. Chẳng hạn, các thuốc giảm đau như aspirin có thể kích thích thành dạ dày nên nếu uống khi đói và lại dùng thêm rượu, cà phê thì thật là nguy hiểm.

Thức ăn là những hợp chất hữu cơ phức tạp và có nhiều chất dinh dưỡng, khi vào cơ thể con người nếu kết hợp với một số thuốc sẽ gây hấp thụ kém. Một số trường hợp có thể dẫn đến các phản ứng phụ mang tính đặc trưng như làm tăng huyết áp và mệt mỏi.

Ngành giao thông vận tải có khẩu hiệu “Đã rượu bia, không lái xe”. Trong y học cũng vậy “Đã rượu bia, đừng uống thuốc”. Nếu đã uống rượu, bia thì nên sau 2 giờ hãy uống thuốc để tránh phiền phức cho sức khỏe của chính mình. Khi uống rượu xong nếu uống thuốc ngay sẽ có thể tạo ra các phản ứng nguy hiểm. Một số loại dược phẩm có thể làm tăng độ cồn trong máu và gây biến chứng.

Một số thuốc chữa bệnh có thể gây nguy hiểm đến hệ thống tiêu hóa, đặc biệt là dạ dày nên chỉ uống vào lúc no sau khi đã ăn cơm, nhằm bảo vệ các lớp lót thành dạ dày và hạn chế viêm loét. Ngược lại, có những thuốc phải để sau khi ăn xong một thời gian rồi mới uống, nếu uống ngay có thể làm cho việc hấp thụ thuốc bị chậm lại.

Một số trường hợp tương kỵ giữa thực phẩm và thuốc:

- Không nên ăn tỏi khi uống thuốc vì nó có thể làm tăng hiệu ứng loãng máu của aspirin và các loại dược phẩm tương tự. Sau khi phẫu thuật, cơ thể đang phục hồi, đặc biệt trong trường hợp các vết thương mở đang lên da non, cần tránh ăn tỏi. Tỏi làm giảm khả năng đông máu và khiến cho việc điều trị gặp nhiều khó khăn.

- Vitamin K có trong súp lơ, chè xanh có thể làm cho máu đông nhanh. Bởi vậy, trong trường hợp uống thuốc làm loãng máu hoặc thuốc chống đông máu thì không nên sử dụng các loại thực phẩm này.

- Chanh có thể làm tăng hàm lượng hấp thụ nhôm trong cơ thể con người. Bởi vậy, khi uống một chất kháng acid (antacid) có chứa nhôm thì không nên uống các loại nước chanh, hoa quả chua. Nên chờ 2, 3 giờ sau hãy uống các thứ nước giải khát này.

- Các loại thuốc kháng acid có chứa nhôm nên có thể gây tổn thất canxi, đặc biệt không tốt cho những người mắc chứng loãng xương. Các thuốc này còn có nhiều natri nên bệnh nhân cao huyết áp cần phải thận trọng trước khi sử dụng.

- Việc hấp thụ các kháng sinh như tetracycline có thể bị canxi trong thức ăn hằng ngày gây cản trở. Sau bữa ăn giàu canxi, nên chờ một vài giờ hãy uống thuốc. Ngoài ra, các loại hoa quả chua cũng có thể cản trở quá trình hấp thụ của thuốc kháng sinh như peniciline. Do đó, sau khi dùng các loại hoa quả này, không nên uống peniciline.

- Sau khi ăn phomát, thịt xông khói, bia hay rượu, không nên uống thuốc chống trầm cảm vì nó có thể làm tăng áp lực máu. Người mắc bệnh này cần hỏi bác sĩ để sử dụng các loại thực phẩm và thuốc uống cho phù hợp.

  - Thuốc cũng leo thang. Liều dùng sau cao hơn liều dùng trước. Ấy là vào năm 2013, cả gia đình tôi bị dịch ho. Khám, chữa theo BHYT cả năm không hết, mà số lượng thuốc điều trị sau mỗi lần, cứ tăng lên. Về với bài thuốc dân gian, tôi đã ngâm 200 g gừng thái mỏng, 0,5 lít mật ong rừng. Nửa tháng đem dùng, uống ngày 1 muỗng thìa Coffe mật ong và ngậm lát gừng. Bệnh ho tuyệt nọc. Cả gia đình 4 năm nay an toàn, hết ho.

Đến đây thì các bạn đã hiểu vì sao tội thịnh đông y! 

    - Phân biệt TPCN và thuốc

Quảng cáo thuốc, VTV đã có câu này “Thực phẩm chức năng không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh”. Thực phẩm chức năng chỉ hỗ trợ điều trị trong thời gian sử dụng. Người tiêu dùng hãy là người thông thái, chọn sản phẩm là thuốc thì mới có tác dụng chữa bệnh.

Sưu tầm, chỉnh sửa từ: TS. Hoàng Ngọc; BS Nguyễn Khắc Nam. Google: từ khóa: thuốc đột quị.

Lời tự sự

Độc giả đã đọc 50 bài thuốc quý, phòng bệnh để hưởng thọ. Đây là những bài thuốc có hàng trăm năm tuổi. Nó đã được đúc kết bằng kinh nghiệm dan gian và chính phác đồ điều trị từ các bác sỹ tây, đông y. Hơn thế, 80% bài thuốc ở đây, đã hành quân trong tôi, chữa bệnh và cho tôi những cảm nhận tuyệt vời. Chia sẻ cùng độc giả, hy vọng các bạn có được những bài thuốc quí phòng bệnh để hưởng thọ, Còn tôi, làm được việc có ích.

Những bài thuốc đã được chuyển thể sang Video – Clip trên kênh YouTube Manhhung Dan (Kênh viết hoa). Bài thuốc tiếp theo 51,52,53…cũng sẽ được chuyển thể sang kênh manhhung dan (Không viết hoa). Kính mời độc giả ghé thăm.

Trong sách có sử dụng nhiều trích dẫn, hình ảnh của nhiều tạp chí, sách, báo mạng và nhiều tác giả. Trân trọng cảm ơn tất cả. Kinh chúc sức khỏe các bạn.  

Đường liên kết của video

https://youtu.be/z5KqiriSs7s

 


Thứ Ba, 11 tháng 8, 2020

BÀI SỐ 46 – MỠ MÁU

 

46.1. Bệnh mỡ cao hay còn gọi là rối loạn chuyển hóa mỡ máu

Thực chất mỡ máu cao là tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu. Đó là tình trạng tăng nồng độ các chất mỡ trong máu bao gồm Cholesterol toàn phần, cholesterol (LDL), triglyceride, và giảm các Cholesterol tốt như: HDL- cholesterol.

46.2. Ai là người có nguy cơ cao mắc bệnh mỡ máu cao?

Nếu bạn đang có cuộc sống sinh hoạt gặp phải 50% các điệu kiện sau bạn dễ bị mỡ máu cao: Thừa cân, béo phì, hút thuốc lá, uống nhiều rượu, ăn nhiều thức ăn có chứa chất béo sẽ làm tăng lượng triglycerid trong máu là những đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh mỡ máu cao.

Bên cạnh đó bệnh mỡ máu cao còn do biến chứng của các bệnh như: đái tháo đường, hội chứng thận hư, tăng urê máu, suy tuyến giáp, bệnh gan, nghiện rượu, uống thuốc tránh thai, một số thuốc tim mạch như thuốc ức chế bêta giao cảm, nhóm thuốc lợi tiểu thiazid. (chiếm khoảng 10% nguyên nhân gây bệnh mỡ máu cao)

46.3. Bệnh mỡ máu cao có gây chết người không?

Câu trả lời là có nếu mỡ máu cao không được điều trị kịp thời.

Bởi mỡ máu cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi hình thành các mảng xơ vữa ở thành mạch máu, gây hẹp lòng mạch, tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, thiếu máu não… Nặng nề hơn nữa là vỡ các mảng xơ vữa làm lấp mạch não (đột quỵ) hoặc nhồi máu cơ tim có thể dẫn đến tàn phế hoặc tử vong. Tăng triglyceride sẽ làm gan nhiễm mỡ, đề kháng insulin dễ dẫn đến bệnh đái tháo đường. Ngoài ra nếu Triglyceride quá cao ( >1000mg/dl) có thể gây ra viêm tuỵ cấp.

Xơ vữa động mạch cản trở lưu thông máu.

46.4. Người gầy có bị mỡ máu cao không?

Người gầy cũng có thể mắc bệnh máu nhiễm mỡ. Bệnh mỡ máu cao thực chất là tình trạng rối loạn lipit máu. Tình trạng rối loạn này có thể xảy ra với bất kỳ ai, tuy nhiên những người béo phì sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người gầy. Người gầy nếu có chế độ ăn uống không lành mạnh: sử dụng rượu bia, hút thuốc, ăn nhiều nội tạng động vật sẽ có khả năng mắc bệnh mỡ máu cao. Chính vì thế người gầy cũng không nên chủ quan, nên đi khám sức khỏe định kỳ để nếu có bệnh có thể phát hiện sớm.

46.5. Bị mỡ máu cao- rối loạn chuyển hóa mỡ máu nên ăn gì?

 Những người bị bệnh mỡ máu cao nên ăn những loại thực phẩm có chứa hàm lượng cholesterol thấp như rau xanh, các sản phẩm được làm từ đậu, thịt nạc thăn… Đặc biệt là nên ăn những loại rau xanh có chứa nhiều chất xơ. Chỉ có như vậy thì mới làm giảm được sự hấp thụ của đường ruột đối với cholesterol.

Nên ăn nhạt vì thức ăn này có lợi cho sức khoẻ và bệnh tim. Kiêng thức ăn có nồng độ chất béo cao, nên ăn những thức ăn ít chất béo như cá, đậu phụ, đỗ tương.

 Nên ăn thực phẩm có nhiều tác dụng giảm mỡ trong máu như: Gừng, chế phẩm đậu sữa, nấm hương, mộc nhĩ, hành tây, ba ba, trà, dầu ngô.

Nguyên nhân của hầu hết các bệnh hiện nay đều xuất phát từ những thói quen không tốt của mỗi chúng ta, mà chủ yếu nhất là việc ăn uống không có khoa học. Để phòng và điều trị dứt điểm các căn bệnh, các bác sĩ đều đưa ra lời khuyên trước tiên với các bệnh nhân là phải điều chỉnh lại chế độ ăn uống sao cho phù hợp nhất. Vậy đối với bệnh mỡ máu cao kiêng ăn gì và nên ăn gì? Sau đây sẽ là lời khuyên cho các bạn khi mắc phải căn bệnh này.

a. Mỡ máu cao kiêng ăn gì?

Có rất nhiều thực phẩm mà chúng ta đã và đang sử dụng hàng ngày có thể làm tăng mỡ trong máu và có thể làm giảm lượng mỡ trong máu. Những người có lượng mỡ trong máu cao quá mức cho phép thì cần chú ý đặc biệt đến chế độ ăn uống để đưa lượng mỡ về mức cân bằng.

Ăn ít các thực phẩm có chất béo

Phần trăm chất béo trong chế độ ăn chỉ được bé hơn 30% đối với những người mắc bệnh mỡ máu cao, để có thể giảm lượng chất béo. Không nên sử dụng mỡ của động vật, thực phẩm chứa rất nhiều chất béo no, các chất là tác nhân gây ra tình trạng tắc động mạch.

Tránh xa các loại đồ ăn có mặt của dầu cọ hay dầu dừa như: bánh kem, socola, kem để uống cà phê,… Đồng thời, không sử dụng các loại bơ thực vật, các đồ ăn chiên rán, mì ăn liền và các thực phẩm sản xuất theo dây chuyền khác. Nếu bạn vẫn muốn sử dụng bơ cho các bữa ăn hàng ngày thì nên chọn bơ thực vật loại mềm.

Tránh ăn liên tục các thực phẩm có hàm lượng cholesterol cao như: nội tạng và da các loại động vật, óc lợn, lòng đỏ trứng gà hay chân giò,… và sử dụng giới hạn các loại thịt đỏ.

Bị bệnh mỡ máu kiêng ăn qúa nhiều đồ ngọt, không uống nhiều bia rượu và không hút thuốc lá.

b. Bị mỡ máu cao nên ăn gì?

Để khắc phục tình trạng mỡ trong máu cao việc ưu tiên chế độ ăn nên đặt lên trước tiên. Thay vì sử dụng dầu có chiết xuất từ động vật bạn nên dùng các loại dầu có chiết xuất từ thực vật, ví dụ như: dầu đậu nành, dầu ngô, dầu hướng dương, dầu cải,…

Ăn nhiều rau xanh và trái cây trong các bữa ăn hằng ngày để bổ sung các loại chất xơ, đặc biệt là các chất xơ hòa tan để giảm lượng chất béo và cân bằng lại lượng cholesterol. Đồng thời, ăn nhiều các loại cá để bảo vệ hệ tim mạch.

Uống thật nhiều nước hàng ngày, bạn có thể hãm trà xanh để uống rất tốt cho việc giảm lượng chất béo dư thừa. Ăn nhạt để bảo vệ tim mạch và sức khỏe.

Mỡ trong máu cao nên ăn các loại đồ ăn có tác dụng giảm mỡ như: Hành tây, trà, dầu ngô, nấm hương, gừng, táo, cá chép, cá hồi, nấm hương.

Trên đây là tất cả những thông tin mà người bị mỡ máu cao không nên ăn và nên ăn để cân bằng lại các chất có trong cơ thể. Mong rằng với những gì chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn một phần nào trong vấn đề bảo vệ và nâng cao sức khỏe.

c. Giải pháp toàn diện giúp kiểm soát mỡ máu hiệu quả

Để kiểm soát mỡ máu không bị tăng cao, các bác sĩ khuyên người bệnh kết hợp thay đổi chế độ ăn, tập luyện thể thao thường xuyên và sử dụng các sản phẩm thiên nhiên 100% thảo dược.

Một số chú ý giúp kiểm soát mỡ máu

    - Ăn thịt gia cầm không da và không có mỡ

    - Ăn thịt nạc

    - Ăn các sản phẩm sữa ít chất béo hoặc không có chất béo

    - Tiêu thụ chất béo không bão hòa đa và chất béo không bão hòa đơn thay vì chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa

    - Ăn thức ăn nướng thay vì thức ăn chiên

    - Tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày, bốn ngày mỗi tuần

    - Tránh thức ăn nhanh, đồ ăn vặt và thịt chế biến

Bổ sung sản phẩm thiên nhiên giúp cải thiện tình trạng mỡ máu cao hiệu quả.

Bên cạnh thực hiện chế độ ăn uống, tập luyện như trên, các chuyên gia y tế khuyến khích người bệnh mỡ máu cao nên sử dụng thêm các sản phẩm thiên nhiên với 100% thảo dược. Điều này vừa dễ làm, hiệu quả và rất an toàn cho sức khỏe.

46.6. 10 bài thuốc nam chữa bệnh tăng mỡ máu

Bài 1: Ngưu tất thái lát mỏng 12g, hằng ngày có thể sắc hoặc hãm bằng phích nước nóng, uống thay nước trong ngày.

Bài 2: Vỏ đậu xanh và lá sen tươi, mỗi vị lượng bằng nhau khoảng 10-20g. Cả hai vị thuốc này hợp thang sắc uống hằng ngày thay nước chè. Bạn cũng có thể hãm thuốc bằng phích nước sôi. Có thể chỉ cần dùng một mình vỏ đậu xanh cũng được.

Bài 3: Tỏi tươi sau khi bóc sạch vỏ lụa, bạn có thể nuốt vào trong hoặc sau các bữa ăn, mỗi bữa khoảng 2-3 tép tỏi là vừa, không nên ăn quá nhiều tỏi trong ngày vì tỏi có vị cay nóng. Liều lượng hằng ngày chỉ nên ăn dưới 5g tỏi.

Bài 4: Canh nấm hương, mộc nhĩ: thỉnh thoảng, bạn có thể kết hợp với y thực trị để làm giảm mỡ máu của mình bằng một phương pháp đơn giản: bát canh thịt nấu với nấm hương và mộc nhĩ, cả hai vị lượng bằng nhau, mỗi vị 10g là vừa. Các bà, các chị không khó khăn gì khi giúp các bạn có bát canh như ý!

Bài 5: Mỗi ngày ăn 2 quả trứng gà cũng có tác dụng làm giảm được mỡ máu. Mới nghe tưởng chừng vô lý làm sao khi ai cũng biết trứng gà là một thực phẩm giàu cholesterol, trong khi nhiều thầy thuốc đều có thể khuyến cáo bạn không nên ăn trứng. Nhưng đó lại chỉ là những quan niệm đã lỗi thời, các nhà khoa học Mỹ đã sử dụng trứng gà như một thứ thuốc để chữa bệnh vữa xơ động mạch trong vài ba năm gần đây. Lecithin có nhiều trong lòng đỏ trứng có tác dụng làm cholesterol không tăng lên trong máu. Cholesterol có lợi (HDL-C) lại có nhiều trong lòng đỏ trứng

Bài 6: Bạn hãy uống mỗi ngày 1-2 cốc sữa đậu nành và ăn các sản phẩm được bào chế từ đậu nành như đậu phụ, tào phớ... chất I flavone có nhiều trong đậu nành có tác dụng làm hạ cholesterol máu, kể cả làm giảm được LDL-C, một cholesterol “xấu” có hại.

Bài 7: Mộc nhĩ trắng và mộc nhĩ đen, cả hai thứ đều 10g thêm 5g đường kính. Bạn hãy nấu mộc nhĩ với đường trong 60 phút, ăn cả cái lẫn nước. Nên ăn liên tục 15 ngày là một đợt điều trị. Mỡ máu sẽ hạ là điều chắc chắn.

Bài 8: Mộc nhĩ đen 30g, rau cần tươi 100g, gạo tẻ 30g, đem nấu cháo ăn ngày 1 lần.

Bài 9: Vừng đen 60g, rang thơm, xát vỏ rồi đem nấu chè đường. Nếu có thể thì ăn hằng ngày hoặc để ăn đổi bữa với các bài thuốc, món ăn khác.

Bài 10: Thỉnh thoảng nên ăn thịt ngan, ngỗng hoặc thịt vịt. Món thịt ngan luộc chấm với vừng rang không chỉ là món ăn khoái khẩu của nhiều người mà còn có tác dụng chữa bệnh tim mạch. Trong mỡ máu của các loại gia cầm này có rất nhiều acid oleic và nhiều thành phần tương tự dầu ôliu. Mặt khác, HDL- cholesterol có lợi trong thịt vịt, ngan, ngỗng đã được các nhà khoa học chứng minh là có hàm lượng rất cao. Những lý do trên đã khẳng định tác dụng tốt của thịt vịt, ngan, ngỗng trong điều trị bệnh vữa xơ động mạch.

Mời các bạn xem các bạn Nga biểu diễn Balet, nhạc không bản quyền YouTube.

  Đường liên kết của video

https://youtu.be/PeVhRpWPWZQ

 

 

Đường liên kết của video

https://youtu.be/PeVhRpWPWZQ

 

Thứ Ba, 21 tháng 7, 2020

BÀI 42 UNG THƯ-Những điều cơ bản


42.1. Ung thư là gì?
Ung thư (cancer) là căn bệnh của tế bào, là tên dùng chung để mô tả một nhóm các bệnh phản ảnh những sự thay đổi về sinh sản, tăng trưởng và chức năng của tế bào. Các tế bào bình thường trở nên bất thường (đột biến) và tăng sinh một cách không kiểm soát, xâm lấn các mô ở gần (xâm lấn cục bộ) hay ở xa (di căn) qua hệ thống bạch huyết hay mạch máu. Di căn là nguyên nhân gây tử vong chính của ung thư. Những thuật ngữ khác của ung thư là khối u ác tính hoặc tân sinh ác tính (malignant neoplasm).
* Các loại ung thư
Ung thư không chỉ là một bệnh mà là nhiều bệnh. Có hơn 100 loại ung thư khác nhau.
Các tế bào ung thư trong một khối u (bao gồm cả tế bào đã di căn) đều xuất phát từ một tế bào duy nhất phân chia mà thành. Do đó một bệnh ung thư có thể được phân loại theo loại tế bào khởi phát và theo vị trí của tế bào đó.
Khối u
Một khối u xuất phát từ sự tăng sinh bất thường của các tế bào và hình thành nên một thể khối. Các khối u có thể là lành tính hay ác tính. Khối u lành tính không thể lan tràn hay xâm lấn các mô và cơ quan khác. Thường thì các khối u lành tính có thể được cắt bỏ mà không cần phải điều trị gì thêm.
Trái lại, khối u ác tính có thể lan tràn hay xâm lấn các mô và cơ quan khác thông qua hệ bạch huyết hay mạch máu theo một tiến trình được gọi là di căn. Khả năng lan tràn (di căn) của khối u khiến cho các khối u ác tính đe dọa đến tính mạng và khó điều trị.
Đa số các bệnh ung thư đều được gọi theo tên cơ quan hay loại tế bào nơi chúng khởi phát. Ví dụ như, ung thư bắt đầu ở phổi thì được gọi là ung thư phổi. Khi ung thư lan tràn từ địa điểm ban đầu đến một phần khác của cơ thể, thì khối u mới có cùng loại tế bào bất thường và cùng tên như khối u nguyên phát. Thí dụ như, ung thư tuyến tiền liệt lan đến xương là ung thư tuyến tiền liệt di căn (hay ung thư tuyến tiền liệt di căn xương), không phải là ung thư xương, bởi vì ung thư đã khởi phát ở tuyến tiền liệt.
Ung thư có khối u đặc
Khối u đặc là một khối bao gồm các tế bào phát triển bất thường như các ung thư của các vùng sau đây:  
                - Tuyến tụy                - Phổi
                - Dạ dày                     - Thực quản
                - Đầu cổ                     - Thận
                - Trực tràng               - Đại tràng
Các bệnh nhân có các loại khối u này thường bị sụt cân trong suốt tiến trình mắc bệnh. Sụt cân thường là triệu chứng đầu tiên khiến họ đi khám bác sĩ.
 Các bệnh ung thư vú, tuyến tiền liệt, buồng trứng và tử cung cũng đưa đến các khối u đặc. Những người mắc các loại ung thư này thường bị sụt cân trong các giai đoạn trễ của bệnh.
Bệnh ung thư có thể được nhóm lại trong các phân loại lớn hơn:
   - Carcinoma (ung thư biểu mô) – ung thư bắt nguồn trong da hoặc trong các mô lót hay phủ các cơ quan bên trong. Ví dụ như: ung thư da, ung thư cổ tử cung, ung thư  hậu môn, ung thư thực quản, ung thư  gan, ung thư thanh quản, ung thư  thận, ung thư dạ dày, nhiều loại ung thư tinh hoàn và ung thư tuyến giáp.
   - Sarcoma (ung thư mô liên kết) – ung thư bắt nguồn trong xương, sụn, mỡ, cơ, mạch máu hay các mô liên kết khác.
 - Leukemia (bệnh bạch cầu, "bệnh máu trắng") – ung thư bắt nguồn trong mô tạo máu như tủy xương và sản xuất ra một số lượng lớn các tế bào máu bất thường tiến vào dòng máu.
  - Lymphoma và myeloma (u lympho bào, u tủy) – ung thư bắt nguồn trong các tế bào của hệ miễn dịch.
  - Ung thư hệ thần kinh trung ương – ung thư bắt nguồn trong các mô não và tủy sống.
Bệnh nhân có các loại khối u này thường bị sút giảm cân trong suốt tiến trình mắc bệnh. Sụt cân thường là triệu chứng đầu tiên khiến họ đi khám bác sĩ.
Các bệnh ung thư vú, tuyến tiền liệt, buồng trứng và tử cung cũng đưa đến các khối u đặc. Những người mắc các loại ung thư này thường bị sụt cân trong các giai đoạn trễ của bệnh.
         - Ung thư máu
Các bệnh ung thư xảy ra trong máu không hình thành các khối u đặc. Thay vào đó, chúng tạo ra một sự gia tăng bất thường ở một số loại tế bào phát tán khắp các mạch máu, hạch bạch huyết hay tủy xương. Thí dụ như, trong bệnh bạch cầu (leukemia), cơ thể sản sinh một số lượng nhiều các tế bào bạch cầu một cách bất thường. Đôi khi, thuật ngữ khối u lỏng cũng được sử dụng trong bệnh bạch cầu để ám chỉ số lượng gia tăng của các tế bào tuần hoàn bất thường. Các khối u hạch bạch huyết  (lymphoma) được xem là các ung thư máu mặc dù chúng có thể hiện diện như một thể khối rõ ràng. Bệnh nhân với các khối u lỏng có thể phát triển sụt cân khi tình trạng bệnh và liệu trình điều trị tiến triển.
42.2. Nguyên nhân ung thư
Ung thư xuất phát từ một tế bào đơn lẻ, đơn vị cơ bản của sự sống. Sự chuyển dạng từ một tế bào bình thường thành một tế bào ung thư là một quá trình nhiều giai đoạn, từ một tổn thương tiền ung thư đến khối u ác tình. Những thay đổi này là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố di truyền của một người và ba loại tác nhân bên ngoài, bao gồm:   
    + Các tác nhân sinh ung vật lý, như tia cực tím và bức xạ ion hóa;
  + Các tác nhân sinh ung hóa học, như a-mi-ăng (asbestos), các thành phần của khói thuốc lá, aflatoxin (một chất nhiễm bẩn thức ăn), và arsenic (một chất nhiễm bẩn nước uống); và
  + Các tác nhân sinh ung sinh học, như nhiễm trùng một số virus, vi khuẩn hay ký sinh trùng
 WHO công bố có tới 116 nguyên nhân gây Ung thư, nhưng theo tôi, gộp lại, có năm nguyên nhân chính:
        1.Do hóa chất: Những người làm công tác liên quan tới hóa chất, kho tàng có hóa chất mà trang bị BHLĐ không bảo đảm an toàn;
        2.Do môi trường độc hại xung quanh gậm nhấm;
        3.Do lối sống của từng người;
        4.Do Virus;
        5.Do di truyền: có thể ông, bà, bố mẹ bị ung thư di truyền lại con cháu.
Ung thư là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Bệnh ung thư ảnh hưởng đến mọi người bất kể quốc gia, chủng tộc hay tôn giáo. Bệnh ung thư có thể được giảm thiểu và kiểm soát qua việc áp dụng các chiến lược phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm ung thư. Nhiều bệnh ung thư có cơ hội chữa lành cao nếu được chẩn đoán ung thư sớm và điều trị đầy đủ.
 Những triệu chứng ung thư thường gặp
1. Ho dai dẳng hoặc khàn tiếng - có thể chỉ ra ung thư phổi.
2. Một sự thay đổi trong sự xuất hiện của một nốt ruồi - có thể có nghĩa là bạn bị ung thư da.
3. Một sự thay đổi liên tục trong thói quen đi ngoài - có thể là một dấu hiệu của ung thư ruột.
4. Một vết loét không lành - phụ thuộc vào nơi bị loét, loét miệng có thể có nghĩa là ung thư miệng.
5. Bị khó nuốt - có thể có nghĩa là một người đang bị ung thư thực quản.
6. Giảm cân không giải thích được - có thể chỉ ra một số dạng ung thư.
7. Thay đổi liên tục trong thói quen tiểu tiện - có thể là một dấu hiệu của ung thư bàng quang và ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới.
8. Đau không rõ nguyên nhân - có thể là một dấu hiệu cảnh báo của nhiều dạng bệnh
9. Đau không giải thích được dai dẳng - tùy thuộc vào nơi, có thể biểu thị nhiều loại ung thư.
10. Chảy máu không rõ nguyên nhân - phụ thuộc vào nơi chảy máu mà có thể là ung thư ruột, ung thư cổ tử cung…
 Những thực phẩm gây ung thư hàng đầu
Hút thuốc, uống rượu
Khói thuốc lá có chứa nhiều chất gây ung thư và hình thành khối u, chẳng hạn như nicotine, benzopyrene, nitrit, thuốc lá, thạch tín, và hydro, bismuth, polonium, v.v…
Có 100 triệu người trên thế giới chết vì hút thuốc lá mỗi năm, trong đó tỷ lệ chết vì ung thư phổi chiếm khoảng 90%.
Ngoài ung thư phổi, hút thuốc lá có thể gây ung thư cổ họng, ung thư miệng, ung thư thực quản, ung thư dạ dày, ung thư bàng quang, ung thư cổ tử cung.
Lạm dụng rượu lâu dài là nguyên nhân gây ra bệnh xơ gan rồi đến ung thư gan.
Thức uống có ga
Các loại thức uống có gas cũng gây ung thư. Có nhiều chất đường, hóa chất và chất màu. Soda làm acid hóa cơ thể và nuôi dưỡng tế bào ung thư. Chất màu giống caramel trong thức uống có gas và dẫn chất của nó 4-methyllimidazole cũng là chất gây ung thư.
Nước bị ô nhiễm
Nước bị ô nhiễm có chứa chất gây ung thư, các chất thúc đẩy ung thư, chẳng hạn như chất độc trong tảo xanh, axit humic...
Sử dụng thực phẩm có chứa nitrite và sẫm màu
Nếu thường xuyên tiêu thụ thịt bị ô nhiễm có chứa hàm lượng cholesterol – sắc tố đỏ cao, chẳng hạn như: thịt bò, thịt lợn, thịt cừu và nội tạng động vật khác, sẽ làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.
Thực phẩm hun khói và ngâm tẩm cũng chứa chất gây ung thư, thường xuyên ăn rất dễ dẫn đến ung thư dạ dày.
Thực phẩm quá nóng
Thường xuyên tiêu thụ thực phẩm nóng hơn 60 độ C dễ gây ra viêm niêm mạc miệng, viêm thực quản, viêm dạ dày, tình trạng viêm nhiễm thời gian dài sẽ dẫn đến ung thư.
42.3. Điều trị ung thư
Các liệu pháp điều trị ung thư có thể được sử dụng một mình hoặc kết hợp với nhau. Loại điều trị tùy thuộc vào vị trí ung thư, mức độ lan, tuổi và tổng trạng sức khỏe của bệnh nhân, các chọn lựa điều trị sẵn có và các mục tiêu cho việc điều trị. Các loại điều trị phổ biến nhất là phẫu thuật, xạ trị và hóa trị.
 - Phẫu thuật
Nhiều tiến bộ đã được tạo ra trong điều trị ung thư, nhưng việc loại bỏ các khối u ác tính qua phẫu thuật vẫn là liệu pháp “cứu chữa” chủ yếu đối với đa phần các khối u đặc.
 - Xạ trị     
Trong xạ trị, một chùm tia phóng xạ được nhắm vào vị trí của khối u. Vị trí của khối u bị bắn phá bằng phóng xạ trong thời gian vài phút trong một loạt các đợt điều trị, thường kéo dài liên tục trong vài tuần. Mục tiêu là phá hỏng DNA của các tế bào thuộc khối u, hủy diệt chúng khi chúng đang cố gắng sản sinh, trong khi gây tổn hại tối thiểu cho mô bình thường ở chung quanh.
   - Hóa trị
Hóa trị liên quan đến việc sử dụng các thuốc chống ung thư, và giống như xạ trị, sẽ hủy diệt các tế bào ung thư bằng cách làm tổn hại DNA của chúng. Bệnh nhân tiếp nhận các thuốc hóa trị qua đường uống hoặc truyền qua tĩnh mạch. Tùy loại, vị trí và giai đoạn của bệnh ung thư, bệnh nhân có thể phải điều trị hàng tuần hay hàng tháng. Hóa trị là một điều trị toàn thân tác động đến toàn bộ các tế bào đang phát triển nhanh. Điều này bao gồm các tế bào của khối u và các tế bào bình thường như các tế bào ở nang tóc và ở đường tiêu hóa. Điều này gây ra các tác dụng phụ, như bị rụng tóc và tiêu chảy thường gặp trong hóa trị.
  - Điều trị kết hợp
Đôi khi các biện pháp phẫu thuật, xạ trị và hóa trị có thể được kết hợp để điều trị tốt hơn một ung thư cụ thể. Chẳng hạn như, xạ trị có thể được sử dụng trước để làm thu nhỏ khối u, khiến các bác sĩ dễ dàng hơn trong việc phẫu thuật cắt bỏ nó. Hay, hóa trị có thể được sử dụng cùng với xạ trị để tiêu diệt các tế bào ung thư có thể đã vượt ra ngoài khối u.
  - Y học Hỗ trợ và Thay thế
(Complementary and Alternative Medicine - CAM)
CAM là sự áp dụng y học cổ truyền. Y học cổ truyền là các thực hành về sức khỏe, phương pháp, kiến thức và niềm tin kết hợp với các loại thuốc dựa vào cây cỏ, động vật và khoáng chất, các liệu pháp tinh thần, các kỹ thuật và luyện tập tay chân, được áp dụng một mình hay kết hợp với nhau để điều trị, chẩn đoán và ngăn ngừa bệnh tật hay duy trì tình trạng khỏe mạnh. Một số nghiên cứu quốc tế chứng minh rằng gần 30% bệnh nhân mắc bệnh ung thư đã sử dụng CAM. Các liệu pháp phổ biến nhất là các liệu pháp thảo dược, thiền và các kỹ thuật thư giãn.
 Những hệ lụy của nó
Những phương pháp điều trị ung thư trên đã mang lại một số lợi ích nhất định trong việc điều trị song tác dụng phụ của nó lại gây ra nhiều bất lợi cho người bệnh. Những tác dụng phụ ấy có thể khiến sức khỏe bệnh nhân giảm sút, cơ chế miễn dịch của cơ thể suy yếu, giảm khả năng chống chọi với bệnh tật. Xin nêu một ví dụ: Tác dụng phụ phổ biến của phương pháp hóa trị liệu
     Mệt mỏi: Mệt mỏi là triệu chứng thường gặp nhất của bệnh nhân ung thư được hóa trị. Sau khi thực hiện hóa trị, cơ thể bệnh nhân thường suy nhược, khó thở, chán ăn, hạn chế hoạt động thể lực.
     Đau đớn: Hóa trị có thể gây đau cho một số vùng trên cơ thể, bao gồm đau đầu, đau cơ, đau bụng, và đau do tổn thương thần kinh, như tê hoặc đau các ngón tay và ngón chân.
     Lở loét trong miệng và cổ họng: Hóa trị có thể gây tổn hại các tế bào lót miệng và cổ họng. Các vết loét thường phát triển từ 5 đến 14 ngày sau khi thực hiện hóa trị. Chúng sẽ được chữa lành hoàn toàn khi điều trị kết thúc. Chính vì vậy, bệnh nhân được điều trị hóa trị nên có chế độ ăn uống không lành mạnh và vệ sinh răng miệng sạch sẽ để giảm nguy cơ lở loét.
    Tiêu chảy hoặc táo bón: Trong một số trường hợp, hóa trị liệu gây đi tiêu lỏng, chảy nước hoặc táo bón. Khi gặp tình trạng này, người bệnh cần phải kịp thời báo với bác sĩ để điều trị sớm, tránh tình trạng mất nước. Bên cạnh đó, nên uống đủ nước, có chế độ ăn uống cân bằng và vận động hợp lý để tránh xảy ra tình trạng này.
      Buồn nôn và chán ăn: Buồn nôn và ói mửa là một trong những tác dụng phụ đáng sợ nhất của hóa trị, nghiêm trọng hơn nó có thể khiến bệnh nhân phải dừng các đợt hóa trị. Cùng với buồn nôn và nôn, hóa trị gây ra mất cảm giác hương vị, làm mất cảm giác thèm ăn, dẫn đến hấp thu dinh dưỡng kém. Bệnh nhân có thể ăn ít hơn bình thường, không cảm thấy đói, hoặc cảm thấy no sau khi ăn chỉ một lượng nhỏ.
     Rối loạn máu: Hoá trị gây ảnh hưởng đến việc sản xuất các tế bào máu mới trong tủy xương, ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh. Một số loại thuốc gây tổn thương thần kinh, dẫn đến những triệu chứng như ngứa ran, cảm thấy yếu hoặc tê ở bàn tay và bàn chân, mệt mỏi hoặc đau nhức, run rẩy, cứng cổ, nhức đầu, vấn đề thị giác, nghe khó khăn, chậm chạp, vv…
  - Tác dụng phụ lâu dài khi hóa trị
Hầu hết các tác dụng phụ của hóa trị liệu biến mất khi kết thúc điều trị. Tuy nhiên, một số tác dụng phụ có thể kéo dài, hoặc phát triển tiếp. Ví dụ, một số loại hóa trị có liên quan đến tổn thương cơ quan thường trực về tim, phổi, gan, thận, hoặc hệ thống sinh sản. Ngoài ra, một số người bệnh sau khi hóa trị còn bị suy giảm chức năng nhận thức (như suy nghĩ, tập trung, và trí nhớ). Người sống sót qua ung thư cũng có nguy cơ cao phát triển thành bệnh ung thư thứ hai sau này. Vì vậy chăm sóc theo dõi là điều cần thiết cho tất cả những người mắc bệnh bao gồm khám sức khỏe thường xuyên và kiểm tra y tế để giám sát phục hồi sau điều trị.

Thày thuốc khuyên gì?
Ung thư là căn bệnh quái ác nhất trên trái đất này, không những cướp đi nhiều sinh mạng nhất, mà còn để lại cho những người sống sót di chứng nặng nề. Vì vậy, những thày thuốc thường khuyên chúng ta ăn nhiều chất xơ, hoa quả, rau xanh an toàn. Không ăn các loại thực phẩm nhiễm khuẩn hoặc nấm mốc. Hạn chế ăn các loại dưa muối, dưa cải, củ cải muối. Các thức ăn nóng, và có dầu mỡ lưu trữ trong các lọ Thủy tinh, thép, sứ. Nên ăn cá, tôm, hải sản, thức ăn chay. Không nên ăn các đồ hộp, xúc xích, paté gan, nội tạng, cũng như các thực phẩm có nhiều chất bảo quản hoặc màu công nghiệp độc hại. Không sử dụng thức uống có cồn (rượu, bia. Rượu thuốc cũng cần sử dụng hạn chế). Tuyệt đối tránh xa nơi có khói thuốc lá, khói bụi, ô nhiễm, tiếng ồn. Hạn chế sử dụng thịt đỏ vì thực phẩm này có thể kích thích tế bào ung thư tăng trưởng.
Duy trì cân nặng hợp lý. Không để thừa cân hoặc thiếu cân. Béo phì và tiểu đường làm tăng nguy cơ ung thư. Bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây ung thư như tia tử ngoại, khói thuốc, khói bụi, các hoá chất độc hại… Một số hoá chất sử dụng trong ngành công nghiệp chăm sóc sắc đẹp, in ấn, da giày,… như thuốc nhuộm tóc, sơn móng tay, mực in, chất tạo màu… có chứa nhiều hoá chất tăng nguy cơ ung thư.
Do đó, cần mang bao tay, khẩu trang, tăng cường thông thoáng khí, sử dụng các hệ thống có chức năng lọc không khí và cô lập, phân huỷ các hoá chất gây ung thư này. Sử dụng kem chống nắng, dùng mũ, dù che nắng khi tiếp xúc với tia tử ngoại.
Ngoài tập thể dục điều độ và nhẹ nhàng, sống nơi yên tĩnh, thoáng mát, thư giãn, lạc quan ở nơi có nhiều cây xanh. Chế độ ăn uống đúng bữa, ăn vừa đủ no. Ngủ sớm và đủ 8 giờ mỗi ngày. Yoga, thiền tĩnh tâm, thư giãn, cầu nguyện, làm việc thiện nguyện rất tốt cho sức khỏe. Các thày thuốc còn khuyên ta có tinh thần lạc quan trong việc phòng ngừa và điều trị ung thư. Khi mình lạc quan, hạnh phúc, phấn chấn thì hệ miễn dịch sẽ hoạt động hiệu quả và tiêu diệt ung thư tốt. Khi mình bi quan, buồn, chán đời thì hệ miễn dịch hoạt động yếu, cơ thể sản xuất ra các stress hormone làm kích thích ung thư phát triển.
 Thường xuyên thực hiện định kì các xét nghiệm và chẩn đoán tầm soát ung thư như chụp nhũ ảnh (mammogram), xét nghiệm máu, nội soi ruột, woman well exam, man well exam.
Một số thuốc Tây y giúp phòng ngừa ung thư:
    Curcumin (chiết xuất từ nghệ)
    Resveratrol (chiết xuất từ vỏ nho…)
    Zyflamend (kết hợp nhiều dược chất giúp ngừa ung thư)
    EGCG (chiết xuất từ trà xanh)
Ngoài ra, linh chi và đông trùng hạ thảo (cordyceps) cũng giúp tăng cường sức khoẻ, tăng cường hệ miễn dịch giúp ngừa ung thư.
Ngày nay, Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học Clinical and Translational Immunology, thực hiện bởi các tác giả đến từ nhóm Mater Research của Viện nghiên cứu Translational và Đại học Queensland (Úc), rằng, đã nghiên cứu thành công một loại vắcxin mới. Vắc-xin này là một dạng vắc-xin điều trị chứ không phải vắc-xin phòng bệnh. Nó có khả năng điều trị nhiều dạng ung thư máu như bệnh bạch cầu dòng tủy, ung thư hạch không Hodgkin, đa u tủy và bệnh bạch cầu ở trẻ em; cũng như các khối u ác tính trong bệnh ung thư vú, phổi, thận, buồng trứng, tuyến tụy. Hy vọng tương lai không xa, loài người tìm  ra nhiều Vắc-xin mới, chữa trị nhiều căn bệnh ung thư, để ung thư di căn không còn là án tử.
42.4. Bài thuốc đông y phòng chống ung thư

Trong xã hội hiện đại, ung thư trở thành mối lo không chỉ của một vài người. Bên cạnh những nghiên cứu của y học hiện đại, việc sử dụng thảo dược để phòng tránh và chữa bệnh ung thư cũng được nhiều người quan tâm.
Bài thuốc phòng chống bệnh ung thư đã rộ lên từ những năm 90 thế kỷ trước, lan truyền là bài thuốc do tử tù Trung Quốc  để lại. Nó chỉ có 2 vị:
           1- Bạch hoa xà thiệt thảo: 60 gam;
           2- Bán chi liên: 30 gam. Một chút cam thảo (cho dễ uống).
Sắc thuốc bằng ấm sắc thuốc hay ấm nhôm đều được. Đổ 4 bát nước, sắc còn 1 bát. Uống lúc đói là tốt nhất, trước bữa ăn 1 giờ, nếu uống sau bữa ăn, cách 2 giờ. Thang thuốc sắc lại lần thứ 2 để uống vào buổi chiều. Có thể sắc lần thứ 3 để uống thay nước. Nếu thấy phân hồng, nước tiểu đỏ như pha máu là thuốc hiệu nghiệm, bạn hãy uống thang thứ 2, thứ 3….
Người đã mắc bệnh ung thư, kiên trì, chỉ uống tuần một lần cho tới khi khỏi. Người khỏe mạnh cũng uống 1 lần để dự phòng. Bài thuốc không kiêng kỵ bất cứ thứ gì, người khỏe dùng để dự phòng; người bệnh ung thư (tất cả các loại) đều dùng tốt. Biết rằng “vái tứ phương” là phép thử, nhưng biết đâu là phương thuốc thần kỳ cho những ai có lòng tin. Phụ nữ có thai không dùng bài thuốc này.
Một số kinh nghiệm dùng bán chi liên và bạch hoa xà thiệt thảo trị các loại ung thư
Bạch hoa xà thiệt thảo và bán chi liên được y học cổ truyền sử dụng để chủ trị các bệnh ung thư từ rất lâu. Ngày nay, một số viện y học dân tộc cũng lấy đây làm 2 vị thuốc chủ lực trong các bài thuốc chữa ung thư.
Tuy nhiên, ung thư có rất nhiều dạng, nhiều vị trí, thể tạng của người bệnh cũng rất khác nhau. Vì thế khi sử dụng 2 vị thuốc này, thầy thuốc thường chẩn bệnh và bốc theo tình trạng bệnh của mỗi người.
Dưới đây là một số bài thuốc có thể chữa các chứng ung thư sử dụng 2 vị thuốc chủ đạo là bán chi liên và bạch hoa xà thiệt thảo được Lương y Hoàng Duy Tân viết trên báo Sức khỏe và đời sống:
- Ung nhọt, u bướu: Bạch hoa xà thiệt thảo 120g, bán biên liên tươi 60g. Sắc uống. Giã nát đắp lên nơi đau
- Ung thư phổi, ung thư trực tràng thời kỳ đầu: Bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên đều 60g, ngày 1 thang. Sắc uống.
- Ung thư phổi:
+ Bạch hoa xà thiệt thảo, bạch mao căn đều 160g tươi. Sắc uống với nước đường.
+ Bạch hoa xà thiệt thảo 50g, bán chi liên, sa sâm, hoài sơn, ngư tinh thảo đều 30g, thiên môn, mạch môn, xuyên bối mẫu, tri mẫu, a giao, tang diệp đều 9g, phục linh 12g, sinh địa 15g, tam thất, cam thảo đều 3g.
Ngày 1 thang sắc uống (sa sâm bạch liên thang).
- Ung thư mũi họng: Bạch hoa xà thiệt thảo, tử thảo, đan sâm đều 30g, bán chi liên, dã bồ đào căn đều 60g, can thiềm bì, cấp tính tử đều 12g, thiên long, bán hạ, cam thảo đều 6g, mã tiền tử 3g. Sắc uống.
- Ung thư xoang hàm trên: Bạch hoa xà thiệt thảo, thạch kiến xuyên, hoàng cầm, bán chi liên, sinh địa, huyền sâm, mẫu lệ (sống) đều 30g, sa sâm, bồ công anh, đại hoàng đều 10g, bạc hà, cúc hoa đều 5 - 10g. Sắc uống.
- Ung thư mũi họng, hạch lymphô cổ to, mũi tắc chảy nước mũi có máu, ho, đờm nhiều, liệt mặt, chất lưỡi tối hoặc đen sạm, rêu dày nhớt, mạch huyền hoạt:
Bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên, bạch mao căn, hoàng cầm, liên kiều, bạch cương tán, hạ khô thảo, triết bối mẫu, thất diệp nhất chi hoa, thổ phục linh, hoàng dược tử đều 12g.
Bán hạ chế gừng, nam tinh lùi, đại kế, tiểu kế đều 8g, bạch anh, đào nhân, ý dĩ, đông qua nhân đều 10 - 16g.
Ngày 1 thang, sắc uống.
- Ung thư thực quản, nuốt khó, lưng ngực đau bỏng rát, miệng khô, họng khô, ngũ tâm phiền nhiệt, đại tiện táo bón, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít hoặc không rêu, mạch huyền tế sác:
Bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên, sinh địa, bắc sa sâm, nam sa sâm đều 16g, huyền sâm, mạch môn, đương quy, bồ công anh, tỳ bà diệp tươi, lô căn tươi đều 20g, chi tử, bạch anh, hạ khô thảo đều 12g, hoàng liên 8 - 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Ung thư gan:
+ Bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên đều 20g, tiểu kim bất hoán, kê cốt thảo đều 15g. Ngày 1 thang sắc uống.
+ Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, chó đẻ răng cưa 30g, cam thảo dây 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2 - 3 lần trong ngày.
- Ung thư dạ dày, trực tràng, thực quản, cổ tử cung và các bệnh u bướu: Bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên, bạch anh, đông quỳ, bán biên liên, trương ương đều 30g. Ngày 1 thang sắc uống.
- Ung thư dạ dày: Bạch hoa xà thiệt thảo 60g, bạch mao căn (rễ cỏ tranh) 60g, hạt bo bo 40g, đường đỏ 40g. Sắc uống ngày một thang.
- Ung thư tuỵ: Bạch hoa xà thiệt thảo, thiết thúc diệp, mẫu lệ nung đều 30g, hạ khô thảo, hải tảo, hải đới, đảng sâm, phục linh đều 15g, lậu lô, đương quy, xích thược, bạch truật đều 12g, đan sâm 18g, xuyên luyện tử, uất kim đều 9g. Sắc uống.
- Ung thư bàng quang: Bạch hoa xà thiệt thảo, long quý, xà môi, bạch anh, hải kim sa, thổ phục linh, đăng tâm thảo, uy linh tiên.
- Ung thư bàng quang, trong nước tiểu có máu, tiểu tiện khó, đau tức ở bụng dưới, nước tiểu vàng, rêu lưỡi nhớt khô, mạch huyền hoạt sác:
Bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên đều 15g, bạch anh, thổ phục linh, long đởm thảo, chi tử sao, hoàng cầm, sài hồ, sinh địa, xa tiền thảo, trạch tả đều 12g, mộc thông, biển súc, cù mạch đều 10g, hoạt thạch 20g.
- Ung thư cổ tử cung: Bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên, côn bố, hải tảo, đương quy, tục đoạn đều 24g, toàn yết 6g, ngô công 3 con, bạch thược, hương phụ, phục linh đều 15g, sài hồ 9g. Sắc uống.
- Ung thư cổ tử cung do thấp nhiệt độc thịnh: Bạch hoa xà thiệt thảo, thổ phục linh đều 30g, bán chi liên, thảo hà xa đều 15g, sinh ý dĩ 12g, thương truật, biển súc, xích thược đều 9g, hoàng bá 6g.
- Ung thư cổ tử cung do can thận âm hư: Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, thảo hà xa, hạn liên thảo, hoài sơn đều 15g, sinh địa 12g, tri mẫu, trạch tả đều 9g, hoàng bá 5g.
- Ung thư tiền liệt tuyến:
Bạch hoa xà thiệt thảo, thổ phục linh, xuyên sơn giáp, sinh hoàng kỳ đều 15g, đảng sâm, tiên linh tỳ, kỷ tử, hà thủ ô chế, ngưu tất, thất diệp nhất chi hoa, bạch thược đều 12g.
Nhục thung dung, ba kích, đại hoàng chế, tri mẫu, chích cam thảo đều 6g, hoàng bá sao 10g. Sắc uống.
- Ung thư xương:
Bạch hoa xà thiệt thảo, địa miết trùng, đương quy, từ trường liễu đều 10g, phòng phong, chích cam thảo đều 6g, ngô công 3g, đảng sâm, hoàng kỳ đều 12g, thục địa, kê huyết đằng đều 15g, nhũ hương, một dược đều 9g.
Ngày 1 thang, sắc uống.
- Bột chống ung thư: Bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên, hoàng kỳ, đương quy. Bột có tác dụng chống ung thư, giải độc, bổ thận nâng cao tính miễn dịch của cơ thể.
  Hiệu quả thực tế của bài thuốc
- Phương thuốc này chủ trị được rất nhiều bệnh ung thư như đã kể trên. Thực tế điều trị cho thấy, các bệnh đáp ứng rất tốt với thuốc và có thể chữa khỏi là các bệnh ung thư dạ dày, ruột, gan, tử cung, vú, não...
Đặc biệt, với bệnh ung thư ruột và dạ dày chỉ cần uống từ 4-5h là có thể cảm nhận được hiệu quả.
- Sau khi uống thuốc nếu thấy đại tiểu tiện có máu, mủ bài tiết ra, đó là dấu hiệu tốt (đối với người bị bệnh nặng).
Đối với người bị bệnh nhẹ, sẽ không thấy có máu mủ bài tiết ra ngoài nhưng sẽ thấy trong người khỏe hẳn ra. Có thể uống thuốc này từ 3 tới 4 tháng mới khỏi hẳn.
 Những lưu ý khi sử dụng bạch hoa xà thiệt thảo và bán chi liên phòng và chữa bệnh ung thư
- Nên uống thuốc vào lúc đói, trước bữa ăn 1h hoặc sau bữa ăn 2h để đạt hiệu quả tốt nhất.
- Mỗi thang thuốc nên sắc theo đúng hướng dẫn của thấy thuốc, sắc 2 lần để lấy thuốc uống. Để tận dụng hết dưỡng chất của thuốc, nên sắc thêm lần thứ 3 với nhiều nước để uống hàng ngày.
- Có thể phòng bệnh bằng cách uống mỗi tháng một lần.
- Khi uống cần kiên trì và cần làm các xét nghiệm để kiểm chứng hiệu quả của thuốc.
- Phụ nữ có thai không được dùng thang thuốc này.
 Toa thuốc trị nhiều chứng bệnh
 Ung Thư, Máu Cao, Tiểu Đường, Máu có Mỡ
 Đau Gan, Suy Thận, Nhiệt v.v.…
-1 củ ngưu bàng (Các chợ Tàu, Đại Hàn có bán).
-1 củ cà rốt.
-1 củ cải trắng, có nguyên cả củ và cọng to.
-1 nấm đông cô của Nhật Bản (Loại có sọc trắng ngoài vỏ nấm, không phải loại nấm đen).
Cách thức sử dụng: Nồi nấu thuốc loại thuỷ tinh có nắp đậy kín, không được loại kim khí.  Tuỳ nồi lớn nhỏ mà sắc thuốc. Tất cả thuốc thái nhỏ 3 phần thuốc, 7 phần nước lọc.
-Để lửa riu riu cháy nhỏ, nấu một giờ không cạn nước, để nguội vô bình cất tủ lạnh, uống ngày 4 lần, nửa chén cơm sáng, trưa, chiều tối khi bụng đói.
Kiêng cữ uống các loại thuốc, thịt, cá, tôm, cua, và trứng; Không uống rượu, hút thuốc, ăn đồ dầu mỡ xào, chiên nóng.
Bệnh nhẹ thì từ bốn đến sáu tháng, nặng đến một năm thì hết tuyệt.
                            (Hoà thượng Thích Giác Nhiên
           Tổ Đình Minh Đăng Quang -  8752 Westminster Blvd
                                Westmínster C.A. 92683).                                
 Khoai môn – món ăn kỳ diệu hỗ trợ điều trị ung thư
Điều kỳ lạ này không chỉ gây tò mò cho người dân Trung Quốc, mà còn nổi tiếng sang tận Mỹ. Ngôi làng yên bình này chính là Lệ Phố, tỉnh Quảng Tây (TQ).
Người dân trong làng có tuổi thọ khá cao, tổng cộng dân số sinh sống trong làng có 3653 người, và tất cả số họ đều không ai mắc bệnh ung thư.
Hiện tượng đặc biệt này đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của một nhóm những nhà khoa học mảng y tế hàng đầu của Mỹ, họ đã cùng với một nhóm nghiên cứu sinh đến đây để tìm kiếm những bí mật.
Nhóm học giả này đã tiến hành nghiên cứu về địa lý môi trường, khí hậu, thói quen ăn uống, và cuối cùng đi đến một giả thiết rằng: Ngôi làng này không có ung thư, đơn giản chỉ vì họ thường ăn khoai môn, chẳng có điều gì khác hơn để có thể làm căn cứ.
Khoai môn cả thế giới đều có, tại sao mỗi người làng Lệ Phố mới phòng được ung thư?
Quả thực, các chuyên gia nghiên cứu này nói rằng, điều đặc biệt là ngôi làng này cách xa thành phố, người dân khá nghèo khổ.
Trong làng hầu như chỉ có duy nhất một nghề là trồng cây khoai môn. Đây cũng là món đặc sản được bán rộng rãi cho khách du lịch ở khu vực Quế Lâm.
Vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, người dân cả làng từ xưa vẫn giữ thói quen ăn khoai môn "của nhà trồng được" vào các bữa sáng.
Trong những bữa ăn phụ khi đi làm ngoài đồng ruộng, họ cũng mang ít khoai môn đi để ăn thêm, chẳng có món ăn nào khác cả.
Liệu khoai môn có phải là thực phẩm phòng ung thư?
Theo tài liệu nghiên cứu tác dụng của thực phẩm trong việc phòng chống ung thư, khoai môn là 1 trong 21 cái tên được nhắc đến.
Chưa có một công trình nghiên cứu riêng lẻ nào khác khẳng định chắc chắn rằng khoai môn có thể phòng được ung thư, nhưng những tác dụng của khoai môn đối với sức khỏe sẽ giúp bạn hiểu về thực phẩm này có liên quan thế nào.
     Khoai môn có tính kiềm
Theo nghiên cứu, có đến 85% người mắc bệnh ung thư có thể chất mang tính axit. Vì thế, duy trì thể chất có tính kiềm yếu sẽ giúp ngăn ngừa ung thư.
Khoai môn chính là thực phẩm có tính kiềm, có thể trung hòa tính axit trong cơ thể, cân bằng axit – kiềm, nhờ đó tế bào ung thư không có môi trường để phát triển.
Ngoài ra, đại bộ phận những thực phẩm có nguồn gốc thực vật, nhiệt lượng thấp như rau, trái cây… hầu như đều là thực phẩm có tính kiềm.
   Khoai môn chứa một lượng lớn chất dinh dưỡng
Thành phần dinh dưỡng của khoai môn phong phú, đa dạng như protein, canxi, phốt pho, sắt, kali, magiê, natri, carotene, niacin, vitamin C, vitamin B, saponin…
Những chất này giúp tăng cường chức năng miễn dịch, phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh ung thư hiệu quả, ức chế sự hình thành các khối u rất tốt.
   Khoai môn chứa một loại chất nhầy đặc biệt
Khi bạn gọt khoai môn/khoai sọ tươi có thể cảm thấy chất nhầy này, chúng chứa một chút độc tố nên sẽ gây ngứa cơ thể.
Sau khi cơ thể hấp thụ chất nhầy này sẽ sản xuất globulin miễn dịch, cải thiện sức đề kháng. Điều này đã được khẳng định trong tài liệu về Y dược cổ truyền Trung Quốc.
Chất nhầy saponin và các nguyên tố vi lượng khác có thể giúp cơ thể bổ sung vi chất dinh dưỡng, làm tăng sự thèm ăn và giúp tiêu hóa thuận lợi.
Vì vậy, y học Trung Quốc khẳng định khoai môn có thể bổ sung và điều hòa trung khí trong cơ thể.
Ngày xưa, khoai môn luôn luôn được xem là một món quà của hoàng gia, đặc biệt là các triều đại nhà Thanh (TQ), Hoàng đế Càn Long rất thích ăn.
Trong tài liệu về những thực phẩm ngăn ngừa ung thư của Trung Quốc viết, khoai môn (ở phạm vi bài này nhắc đến bao gồm cả khoai sọ) có vị ngọt tự nhiên, tính bình, có thể tản kết, giải độc và làm mềm thận.
   Phòng tránh và ngăn ngừa ung thư
Trong cuốn sách "Sổ tay sử dụng các món ăn phòng chống ung thư" (实用抗癌药物手册) ghi chép rằng:
"Khoai môn chữa bệnh ung thư tuyến giáp, ung thư gan, ung thư hạch bạch huyết, mỗi ngày dùng 15-30 gram nấu chín rồi ăn".
Trường hợp bệnh nhân mắc các loại ung thư khác nhau, với các hạch bạch huyết hoặc di căn nên ăn khoai môn với một lượng thích hợp để kiểm soát và khống chế sự di căn của các hạch bạch huyết.
Trong nghiên cứu của Y học Trung Quốc cho rằng, khoai môn có thể hỗ trợ điều trị bệnh ruột kết, dạ dày, ruột rộng, táo bón, giải độc, bổ thận, làm tiêu sưng và đau, làm giảm tắc nghẽn dạ dày và lá lách, thông hoạt khí, đờm, và các triệu chứng khác.
Do giá trị dinh dưỡng phong phú có thể tăng cường chức năng miễn dịch, phòng ngừa và điều trị các bệnh ung thư, được sử dụng như là một thực phẩm chủ yếu.
Khoai môn có vai trò lớn trong điều trị hỗ trợ trong phẫu thuật ung thư hoặc xạ trị sau phẫu thuật, hóa trị liệu và phục hồi chức năng.
   Khoai môn giúp tiêu sưng, giải độc
Chất protein và chất nhầy trong khoai môn sau khi được hấp thụ vào cơ thể sẽ sản xuất globulin miễn dịch, hoặc các kháng thể được gọi là globulin miễn dịch, có thể cải thiện sức đề kháng của cơ thể.
Vì vậy, y học Trung Quốc xem khoai môn là món ăn giải độc của cơ thể, hạn chế nảy sinh mụn nhọt, ức chế và tiêu hủy ung nhọt.
Khoai môn có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như luộc, hấp, làm bánh, nấu canh, nấu cháo…
Dù chưa biết câu chuyện về ngôi làng Lệ Phố thoát khỏi ung thư nhờ khoai môn có chính xác hay không nhưng thương hiệu khoai môn Lệ Phố đã nổi tiếng khắp thế giới, đặc biệt là ở Châu Á.
ở Việt Nam, khoai môn cũng được dùng làm khá nhiều thức ăn, và chúng cũng góp phần làm tăng cường hệ miễn dịch, phòng chống căn bệnh quái ác này.

                                    Tổng hợp từ Health39/NTDTV/Mỹ thực
Mời nghe ông Ngạn - Ái Vân đọc phần cuối Truyện ma - Mây đen2. Chúc vui vẻ.

Đường liên kết của video

https://youtu.be/kPEKkwJahvE