THÚ VUI CỦA NGƯỜI GIÀ

Thứ Tư, 7 tháng 2, 2024

TẾT TA KHÔNG PHẢI TẾT TÀU

 Trong 1000 năm Bắc thuộc, một số phong tục từ phương Bắc nhập vào Việt Nam. Để đến bây giờ nhiều người cứ nghĩ nhầm Tết Nguyên Đán là Tết Tàu.

Trong khi dân tộc ta ăn Tết vào tháng Giêng (Dần) âm lịch từ rất lâu rồi, từ mấy ngàn năm trước, từ thời vua Hùng Vương (sự tích bánh dầy bánh chưng, thuần Việt), trước cả thời Tam Hoàng Ngũ Đế (2852-2205 trước Công Nguyên).

Họ Hồng Bàng dựng nước Văn Lang năm Nhâm Tuất 2879 trước CN.

Mãi sau người Tàu mới học theo Việt Nam để ăn Tết rồi biến thành Tết Tàu.

Theo lịch sử Trung quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ.

Đời Tam Đại chọn tháng Giêng (Dần) làm tháng Tết.

Nhà Thương chọn tháng Chạp (Sửu).

Nhà Chu chọn tháng mười một (Tí).

Đời Đông Chu, Khổng Tử chọn lại tháng Giêng (Dần).

Đời nhà Tần (thế kỷ 3 trước CN), Tần Thuỷ Hoàng lại chọn tháng Mười (Hợi).

Cuối cùng, đời nhà Hán (140 trước CN), Hán Vũ Đế vĩnh viễn chọn tháng Giêng (Dần) để người Hán ăn Tết cùng tháng cùng ngày như người Việt mình kể từ đó.

Trong Kinh Lễ, một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử (551-479 trước CN) đã viết: “Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là Tế Sạ”.

Vậy nhé. Tết Ta, không phải Tết Tàu!

Nguồn: fb Hai Anh Vu

Quoc Tri Hoang+Đào Kiến Quốc

Pham Thu Nga Nga

Đấy là cách "ăn Tết" thôi. Ngày tháng lịch ta trùng hết! Không chỉ ta mà Nhật, Hàn cũng cùng ngày luôn. 👍


Thứ Hai, 5 tháng 2, 2024

ĂN bánh chưng NGÀY TẾT

 Người huyết áp cao ăn bánh chưng có nguy cơ đột quỵ không?

Tôi 65 tuổi, huyết áp cao nhưng rất thích ăn bánh chưng, bánh tét chiên trong ngày Tết. Thói quen này có dẫn đến đột quỵ không? (Trần Bằng, TP HCM)

Trả lời:

Hiện chưa có nghiên cứu nào cho thấy ăn bánh chưng, bánh tét gây ra đột quỵ. Tuy nhiên, ăn quá nhiều các món này, nhất là loại chiên rán, góp phần khởi phát hoặc tăng nặng các bệnh nền sẵn có như tim mạch, tăng huyết áp, xơ vữa mạch máu. Các bệnh này có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ.

Bánh chưng, bánh tét luộc, hấp hay chiên giòn chứa nhiều chất béo, tinh bột, đạm. Tiêu thụ quá nhiều chất béo dẫn đến thừa cân, mỡ máu cao, tăng khả năng hình thành mảng xơ vữa mạch máu, tăng huyết áp.

Một chiếc bánh chưng cỡ vừa (trọng lượng khoảng 114 g) có 204 kcal, khoảng 5 g chất đạm, 6 g chất béo, 34 g chất bột đường. Trung bình 1/4 chiếc bánh chưng có khoảng 500 calo (tương đương hai chén cơm), chứa nhiều năng lượng.

Người dùng nhiều bánh chưng rán thường bị đầy hơi, chướng bụng, khó tiêu cũng dễ dẫn đến tăng huyết áp, đường huyết cao, mỡ máu cao - những yếu tố nguy cơ đột quỵ.

Nếu anh bị tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì, tăng mỡ máu và lớn tuổi thì hạn chế bánh chưng. Có thể dùng khoảng 100 g bánh chưng (tức 1/8 chiếc bánh) hoặc một khoanh bánh tét mỏng mỗi ngày. Nên ăn vào bữa sáng hoặc trưa, tránh vào bữa tối vì dễ bị khó tiêu. Nên kết hợp bánh chưng, bánh tét với các loại củ ngâm chua để chống ngán. Hạn chế ăn bánh chưng kèm với hành muối hoặc củ kiệu vì nhiều muối gây tăng huyết áp.

Các thông tin trên mang tính tham khảo chung. Mỗi người có tình trạng sức khỏe và bệnh lý riêng nên có thể đi khám để bác sĩ tư vấn cụ thể. Người bệnh tăng huyết áp hay đái tháo đường, tăng mỡ máu nên tái khám định kỳ và dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ (nếu có).

TS.BS Nguyễn Thị Minh Đức

Trưởng Khoa Thần kinh, Trung tâm Khoa học Thần kinh

Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2024

Bệnh mất trí nhớ - Alzheimer

 Alzheimer gây suy giảm trí nhớ và khả năng suy nghĩ, tiến triển nặng dần ảnh hưởng tính độc lập của người bệnh.

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi ThS.BS Hoàng Tiến Trọng Nghĩa và ThS.BS Trần Thị Hoài Thu, khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 175.

Định nghĩa

- Alzheimer là bệnh lý não bộ do sự thoái hóa làm chết các tế bào thần kinh, thường bị nhầm lẫn là tình trạng giảm trí nhớ bình thường ở người lớn tuổi.

- Bệnh gây suy giảm trí nhớ, học tập và khả năng suy nghĩ.

- Bệnh tiến triển nặng dần theo thời gian, ảnh hưởng tính độc lập của người bệnh trong sinh hoạt hằng ngày.

- Đôi lúc người bệnh gặp khó khăn trong việc tư duy, giao tiếp và có những hành vi, cảm xúc không phù hợp. Điều này đem lại gánh nặng lớn cho gia đình và xã hội.

- Bệnh Alzheimer là nguyên nhân phổ biến nhất của sa sút trí tuệ (60-70%).

- Ước tính khoảng 300.000-400.000 người Việt mắc bệnh Alzheimer.

- 60% người bệnh không được chẩn đoán.

- Bệnh có thể xuất hiện trong cơ thể từ trước thời điểm người bệnh có biểu hiện quên đầu tiên, có thể từ 5 năm, 10 năm và thậm chí 20 năm.

Cơ chế gây bệnh

- Quá trình thoái hóa khiến não bộ hình thành các mảng beta-amyloid và sự tích tụ bất thường của các protein tau.

- Các chất này khi lắng đọng lại sẽ làm tổn thương, ngăn chặn sự vận chuyển chất dinh dưỡng đảm bảo sự sinh tồn và hoạt động bình thường của các tế bào thần kinh, ảnh hưởng trí nhớ và các chức năng nhận thức khác của người bệnh.

- Từ đó, họ trở nên hay quên, gây ra nhiều lo âu cho người bệnh và người nhà.

Nguyên nhân

- Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân gây ra bệnh Alzheimer không chỉ có một mà là tổng hợp của nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố hàng đầu là tuổi tác.

- Một số ít trường hợp Alzheimer có thể xuất hiện sớm ở độ tuổi 30-60. Phần lớn trường hợp này có liên quan đến yếu tố di truyền.

- Ngoài ra, còn rất nhiều yếu tố khác liên quan đến môi trường, tình trạng bệnh lý có thể có khả năng thúc đẩy bệnh phát triển như:

* Chấn thương đầu.

* Xơ vữa mạch máu, tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn mỡ máu.

* Cuộc sống căng thẳng nhiều lo âu và thường xuyên mất ngủ.

* Lối sống không lành mạnh như ít vận động, ít rèn luyện trí óc, ít giao tiếp xã hội, thừa cân, hút thuốc lá, sử dụng bia rượu.

Triệu chứng

- Triệu chứng Alzheimer sẽ tiến triển nặng dần theo thời gian.

* Ở giai đoạn sớm, các than phiền chủ yếu là giảm trí nhớ ở mức độ nhẹ.

* Khi bệnh trở nên nặng hơn, người bệnh lú lẫn nhiều, mất khả năng trò chuyện và tương tác với mọi người xung quanh, không thể tự mình ăn uống, tắm rửa hay vệ sinh cá nhân và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chăm sóc.

- Mỗi người bệnh đều có những biểu hiện khác nhau, không giống nhau hoàn toàn.

- Dấu hiệu sớm của bệnh Alzheimer:

* Giảm trí nhớ: Bệnh nhân quên các sự việc diễn ra gần đây. Các sự việc diễn ra đã lâu trong quá khứ, ban đầu người bệnh vẫn nhớ được, sau dần cũng bị mất đi và sự mất trí nhớ này là vĩnh viễn.

* Khó khăn trong việc diễn đạt bằng ngôn ngữ.

* Thay đổi hành vi, tâm trạng và tính cách.

* Khó khăn trong việc thực hiện các công việc quen thuộc thường ngày.

* Khó khăn trong việc định hướng thời gian và vị trí của bản thân.

* Giảm khả năng đánh giá vấn đề, gây khó khăn trong việc quyết định công việc.

* Khó khăn trong việc theo dõi cuộc trò chuyện.

* Hay làm mất đồ, phải đi lục tìm đồ đạc thường xuyên.

* Gặp khó khăn trong việc hiểu các thông tin thông qua thị giác hay trong không gian. Ví dụ không xác định được màu đèn tín hiệu giao thông để dừng xe hay đi tiếp.

* Phải ngừng công việc hiện tại hoặc các hoạt động xã hội.

Chẩn đoán

- Đối với bệnh nhân có biểu hiện quên, bác sĩ sẽ sử dụng nhiều công cụ và bài kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán họ có thể mắc bệnh Alzheimer, bao gồm:

* Hỏi người bệnh và người thân về biểu hiện, thời gian và tiến triển bệnh, các bệnh lý mạn tính, thuốc đang sử dụng, thói quen sinh hoạt và chế độ dinh dưỡng.

* Đánh giá trí nhớ, các chức năng nhận thức (tập trung, ngôn ngữ, chức năng điều hành, vận động không gian) và các rối loạn hành vi tâm lý bằng các bài kiểm tra đã được chuẩn hóa.

* Xét nghiệm máu, chụp hình ảnh học sọ não (CT scan, MRI sọ não).

* Xét nghiệm dịch não tủy, di truyền học, hình ảnh học hạt nhân (amyloid PET, tau PET) trong số ít trường hợp biểu hiện không điển hình.

- Những bài đánh giá này nhằm xác định những nguyên nhân khác có thể gây ra tình trạng suy giảm trí nhớ như đột quỵ, u não, viêm nhiễm, bệnh Parkinson, rối loạn giấc ngủ, thiếu dinh dưỡng hay do tác dụng phụ của thuốc.

- Một số nguyên nhân và yếu tố thúc đẩy nếu điều trị được có thể làm cải thiện tình trạng bệnh.

Nguy cơ tử vong

- Trung bình người bị mắc bệnh lý này có thể sống được 8-10 năm kể từ khi có triệu chứng bệnh. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp có thể sống lâu hơn nếu được phát hiện, điều trị và quản lý đúng cách.

- Những người bệnh Alzheimer giai đoạn nặng không thể tự chăm sóc bản thân, sinh hoạt tại chỗ và phụ thuộc hoàn toàn vào người nhà. Hoạt động của đường tiêu hóa và tiết niệu bị suy giảm. Lâu dần, họ mất khả năng nuốt, gây nên tình trạng suy dinh dưỡng và hít sặc. Do đó, người bệnh thường tử vong do các bệnh lý có liên quan như viêm phổi, nhiễm trùng vết loét, bệnh lý tim mạch, thuyên tắc phổi, suy dinh dưỡng và mất nước...

Điều trị

- Hiện nay, chưa có cách nào để điều trị khỏi bệnh Alzheimer. Mục tiêu chính là:

* Làm chậm quá trình tiến triển của bệnh và giảm nhẹ các triệu chứng.

* Giúp người bệnh sống chung với các triệu chứng bệnh một cách nhẹ nhàng hơn.

* Góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

- Thuốc điều trị bệnh bao gồm:

* Nhóm thuốc cải thiện trí nhớ, nhận thức.

* Nhóm thuốc điều chỉnh hành vi tâm lý.

* Hiện nay, FDA (Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ) đã chấp thuận nhóm thuốc mới như Lecanemab và Aducanumab trong điều trị bệnh Alzheimer giai đoạn sớm, giúp ngăn chặn sự hình thành mảng beta-amyloid - dấu chỉ điểm của bệnh. Các loại thuốc này cần được kê đơn và tư vấn bởi các bác sĩ chuyên khoa.

- Tập luyện, phục hồi và kích thích nhận thức cũng là một biện pháp cần thiết và hữu ích khi phối hợp với thuốc điều trị.

- Bác sĩ chuyên khoa tư vấn các bài tập luyện não bộ phù hợp với tình trạng và giai đoạn bệnh của từng cá nhân.

- Người bệnh Alzheimer cần được xây dựng một chế độ dinh dưỡng, tập luyện và lối sống lành mạnh để giúp ổn định tình trạng bệnh, kiểm soát các yếu tố có thể thúc đẩy tình trạng bệnh nặng hơn.

- Sự động viên, đồng hành của người thân rất có ý nghĩa và cần thiết, giúp người bệnh Alzheimer lạc quan hơn, vui vẻ hơn để có niềm tin vào hành trình chiến thắng bệnh tật.

Phòng ngừa

Chúng ta có thể làm giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh Alzheimer bằng nhiều cách như:

- Vận động trí óc, không ngừng học hỏi.

- Duy trì cân nặng thích hợp.

- Cải thiện chế độ ăn uống, dinh dưỡng, bổ sung đầy đủ vitamin B12, D và E.

- Ổn định huyết áp, lượng đường trong máu.

- Tập thể dục.

- Không hút thuốc, uống quá nhiều bia rượu.

- Cải thiện giấc ngủ.

Theo Mỹ Ý


 

Thứ Ba, 30 tháng 1, 2024

5 thói quen ăn uống giúp hạ huyết áp cao

 Người bệnh cao huyết áp nên ăn nhiều trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt, sữa chua và cắt giảm lượng muối để kiểm soát chỉ số tốt hơn.

Huyết áp cao xảy ra khi chỉ số huyết áp tâm thu ≥140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg. Chưa phát hiện bệnh hoặc không kiểm soát kịp thời có thể dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe như đau tim, đột quỵ, suy tim.

Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát huyết áp. Một số thói quen ăn uống dưới đây hỗ trợ cho người bệnh.

Ăn nhiều trái cây và rau củ

Trái cây, rau củ không chỉ cung cấp kali, canxi, magiê và chất xơ dồi dào mà còn chứa ít natri nên tốt cho người cao huyết áp. Viện Tim, Phổi và Máu Quốc gia Mỹ (NHLBI) khuyến khích người bệnh cao huyết áp ưu tiên chế độ ăn DASH. Đây là phương pháp ăn lành mạnh với 4-5 phần rau củ và trái cây mỗi ngày.

Ngoài trái cây tươi, người bệnh có thể dùng loại đông lạnh, đóng hộp, sấy khô, miễn là không thêm muối hoặc chất bảo quản. Cách đơn giản giúp bổ sung trái cây, rau vào chế độ ăn uống như ăn bánh mì nướng khoai tây với trái bơ, rau sống vào bữa sáng; sữa chua với quả mọng, salad nấm cùng rau xanh cho bữa phụ.

Ăn nhiều trái cây rau cung cấp các chất dinh dưỡng như kali, magiê, chất xơ hỗ trợ kiểm soát huyết áp. Ảnh: Freepik© Được VnExpress cung cấp

Ưu tiên ngũ cốc nguyên hạt

Chế độ ăn DASH có 6-8 bữa ngũ cốc mỗi ngày, ưu tiên các loại ngũ cốc nguyên hạt như gạo lứt, hạt quinoa, bánh mì nguyên hạt và yến mạch.

Một số công thức nấu ăn với ngũ cốc nguyên hạt đơn giản bao gồm cháo gạo lứt, bột yến mạch cùng nho khô, cháo yến mạch.

Tăng cường sữa, phô mai và sữa chua

Tiêu thụ các sản phẩm từ sữa (sữa, phô mai, sữa chua ít béo hoặc không béo), khoảng 2-3 bữa mỗi ngày hỗ trợ giảm chỉ số huyết áp tâm thu và tâm trương.

Để tăng thêm khẩu vị và bổ sung thêm lượng chất xơ, người bệnh có thể kết hợp uống sữa cùng yến mạch, sữa chua cùng trái cây và thêm phô mai vào bánh mì nướng nguyên hạt.

Giảm muối

Hiệp hội Tim mạch Mỹ khuyến nghị người cao huyết áp nên duy trì lượng natri 1.500 mg mỗi ngày, tương đương 2/3 thìa cà phê muối giúp giảm chỉ số.

Một số thực phẩm thường chứa nhiều muối như bánh sandwich, mì ống và các món ăn hỗn hợp làm từ ngũ cốc khác như pizza, khoai tây chiên, bánh quy giòn và soup. Với sản phẩm đóng gói sẵn, người bệnh cần đọc thông tin trên nhãn dinh dưỡng và hạn chế ăn ngoài. Nấu ăn tại nhà có thể kiểm soát lượng natri tốt hơn.

Chọn thịt nạc thay thịt mỡ

Thịt nạc phù hợp cho chế độ ăn uống cân bằng huyết áp. Bộ Nông nghiệp Mỹ định nghĩa thịt nạc là loại có ít hơn 10 g chất béo, 4,5 g chất béo bão hòa và dưới 95 mg cholesterol với mỗi khẩu phần 100 g.

Protein nạc từ động vật thường là ức gà không da, thịt thăn bò, thịt lợn thăn, gà tây nạc. Chúng đều cung cấp protein chất lượng cao và các chất dinh dưỡng kiểm soát huyết áp.

Bảo Bảo (Theo Eat This Not That, Healthline)


Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2024

Những dạng rối loạn tiền đình thường gặp

 Rối loạn tiền đình xảy ra khi hệ thống cân bằng của cơ thể gặp vấn đề, được chia làm nhiều loại như chóng mặt tư thế kịch phát, đau nửa đầu tiền đình.

Sự phối hợp giữa tai trong và não giúp giữ thăng bằng khi đi đứng, được gọi là hệ thống tiền đình. Triệu chứng rối loạn tiền đình phổ biến là chóng mặt, khó giữ thăng bằng. Một số người khác có thể gặp vấn đề về thính giác và thị giác. Dưới đây là một số dạng rối loạn tiền đình thường gặp.

1.Bệnh chóng mặt tư thế kịch phát lành tính (BPPV)

Đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây chóng mặt do thay đổi tư thế, tức cảm giác đột ngột khiến quay cuồng, lắc lư. Cơn chóng mặt thường ngắn, dưới 60 giây. Bệnh xảy ra khi các tinh thể canxi cacbonat nhỏ trong tai di chuyển không đúng vị trí, khiến tai trong báo hiệu sai thông tin cho não, tạo ra ảo giác chuyển động.

Các yếu tố có thể dẫn đến chóng mặt tư thế kịch phát lành tính như phẫu thuật tai, viêm tai giữa, chấn thương đầu... Bệnh có thể được điều trị thông qua các bài tập cử động đầu do bác sĩ hướng dẫn.

2.Viêm mê cung

Viêm mê cung là bệnh nhiễm trùng tai trong, xảy ra khi mê cung - cấu trúc mỏng nằm sâu bên trong tai bị viêm. Viêm mê cung ảnh hưởng đến khả năng giữ thăng bằng, thính giác. Người bệnh có thể bị đau tai, áp lực, mủ hoặc chất lỏng chảy ra từ tai, buồn nôn và sốt cao.

Nếu nguyên nhân gây viêm mê cung do nhiễm trùng, bạn có thể phải điều trị bằng kháng sinh để giảm viêm, chóng mặt, buồn nôn.

3.Viêm dây thần kinh tiền đình

Cơ thể nhiễm virus do các bệnh như thủy đậu, sởi có thể dẫn đến viêm dây thần kinh tiền đình. Đây là dạng rối loạn ảnh hưởng đến dây thần kinh gửi thông tin âm thanh và cân bằng từ tai trong đến não. Triệu chứng phổ biến là chóng mặt đột ngột, buồn nôn, nôn và khó đi lại.

4.Bệnh Meniere

Bệnh Meniere là dạng rối loạn tai trong, áp suất và thể tích trong nội dịch mê đạo ảnh hưởng đến chức năng của tai trong. Người mắc chứng rối loạn này thường đột ngột bị chóng mặt, ù tai (âm thanh như tiếng chuông, tiếng ù hoặc tiếng ầm ĩ trong tai), mất thính lực, cảm giác đầy ứ ở tai bị ảnh hưởng. Tình trạng mất thính lực nặng hơn theo thời gian, nếu không được điều trị có thể gây mất thính lực vĩnh viễn.

Một số thay đổi trong lối sống như cắt giảm muối, caffeine và rượu góp phần giảm đau do bệnh Meniere.

5.Rò ngoại dịch

Rò ngoại dịch là vết rách hoặc khiếm khuyết ở tai giữa và tai trong, tạo ra nhiều chất lỏng trong tai, gây chóng mặt, có thể mất thính giác. Người bệnh có thể bị rò ngoại dịch bẩm sinh hoặc do chấn thương khí áp (tăng áp lực trong tai), chấn thương đầu. Phẫu thuật có thể giúp sửa chữa các lỗ rò ngoại dịch.

6.U dây thần kinh âm thanh

Khối u ở tai trong này không phải là ung thư, thường phát triển chậm, dễ chèn ép các dây thần kinh kiểm soát thính giác và thăng bằng dẫn đến mất thính giác, ù tai và chóng mặt. Trong một số trường hợp, khối u thần kinh có thể đè lên dây thần kinh mặt, gây tê.

U dây thần kinh thính giác có thể được loại bỏ bằng phẫu thuật hoặc điều trị bằng tia xạ để ngăn chặn phát triển.

7.Đau nửa đầu tiền đình

Não gửi tín hiệu sai đến hệ thống thăng bằng, có thể dẫn đến đau đầu dữ dội, chóng mặt, nhạy cảm với ánh sáng hoặc âm thanh, mất thính lực, ù tai. Đau nửa đầu tiền đình kéo dài vài giờ đến một vài ngày. Bệnh thường xuất hiện ở người có tiền sử đau nửa đầu.

Người thường xuyên bị chứng đau nửa đầu tiền đình nên đi khám để bác sĩ điều trị phù hợp, tránh biến chứng.

Anh Chi (Theo WebMD)


Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2024

XIN CHỚ COI THƯỜNG Rối loạn tiền đình mà không biết

 Câu chuyện vừa sưu tầm

Chị Tâm, 32 tuổi, hai năm nay thường xuyên đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, suy nhược, nghĩ do trầm cảm, bác sĩ khám phát hiện bị rối loạn tiền đình.

Tưởng áp lực công việc dẫn đến trầm cảm, gia đình cho chị Tâm, điều trị tâm thần hơn một năm nhưng không bớt, phải nghỉ việc.

Chị đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM khám vào tháng 12/2023, được đo chức năng tiền đình bằng công nghệ ảnh động nhãn đồ (Videonystagmography - VNG).

Ngày 11/1, PGS.TS.BS Trần Phan Chung Thủy, Cố vấn chuyên môn Trung tâm Tai Mũi Họng, cho biết chị Tâm mắc chứng chóng mặt tư thế kịch phát lành tính (BPPV) hay sỏi lạc ốc tai. Đây là tình trạng do rối loạn hệ thống tiền đình ngoại biên (tai trong) gây ra.

Chị Tâm được tập phục hồi chức năng tiền đình, kết hợp điều trị nội khoa. Sau một tháng, chị lấy lại cảm giác thăng bằng, không còn chao đảo hay chóng mặt, sinh hoạt và làm việc ổn định hơn.

Cũng bị rối loạn tiền đình nhưng không biết, ông Bình, 52 tuổi, ngụ Nghệ An, chóng mặt suốt 5 năm, đi khám nhiều nơi không ra bệnh, mua thuốc bổ não uống. Đến khi tai ù như ve kêu, nghe kém dần bên tai trái, mắt nhìn mờ, ông Bình đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội khám.

Kết quả đo chức năng tiền đình bằng hệ thống ảnh động nhãn đồ VNG cho thấy tiền đình ngoại biên bên tai trái yếu 46% so với tai phải 98% kèm theo chóng mặt tư thế kịch phát lành tính (thạch nhĩ lạc chỗ).

PGS.TS.BS Lê Minh Kỳ, Phụ trách chuyên môn khoa Tai Mũi Họng, cho biết ông Bình có phản ứng bất cân xứng giữa hai bên tai phải và tai trái, chẩn đoán chóng mặt tư thế kịch phát lành tính trên nền bệnh Meniere (một dạng rối loạn tai trong).

Người bệnh được hướng dẫn tập với hệ thống phục hồi chức năng tiền đình (TRV) kết hợp điều trị nội khoa. Sau ba buổi tập, tình trạng chóng mặt của ông Bình cải thiện đáng kể.

Nhiều người nghĩ rằng rối loạn tiền đình chỉ gặp ở người già, trung niên nên không khám, điều trị sớm. Bệnh viện Tâm Anh ghi nhận một số trường hợp mắc rối loạn tiền đình khoảng 20-30 tuổi, chưa có bệnh nền kèm theo. Phó giáo sư Thủy giải thích áp lực cuộc sống, môi trường ô nhiễm, thói quen sinh hoạt kém lành mạnh như thức khuya, thiếu ngủ, ít vận động, chế độ ăn uống không khoa học... có thể khiến rối loạn tiền đình ngày càng tăng và có xu hướng trẻ hóa.

"Phần lớn người bệnh bị bỏ sót, không được điều trị kịp thời, dẫn đến tiến triển nặng gây điếc tai, tăng nguy cơ đột quỵ, té ngã hoặc trầm cảm", phó giáo sư Thủy nói.

Fullscreen button

Bệnh nhân được đo chức năng tiền đình bằng công nghệ ảnh động nhãn đồ (VNG) tại Bệnh viện Tâm Anh đầu tháng 1. Ảnh minh họa: Bệnh viện cung cấp© Được VnExpress cung cấp

Xác định đúng nguyên nhân rối loạn tiền đình có thể điều trị triệt để. Nhưng triệu chứng bệnh phổ biến như chóng mặt, quay cuồng, rối loạn thị giác, thính giác, giảm khả năng tập trung... dễ nhầm lẫn với các bệnh lý thông thường khác.

Phó giáo sư Thủy cho biết bệnh khó phát hiện qua quan sát bằng mắt thường, phải cần các công nghệ chẩn đoán hiện đại như ảnh động nhãn đồ VNG, hệ thống vHIT EyeSeeCam. Phương tiện này gồm một chuỗi phép đo chức năng tiền đình dựa trên chuyển động nhãn cầu (mắt), giúp xác định tổn thương tiền đình ở não hay ở tai. Từ đó, bác sĩ xác định đúng nguyên nhân gây bệnh, điều trị phù hợp và thành công cao.

Một bệnh nhân tập phục hồi chức năng tiền đình bằng hệ thống TRV tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội. Ảnh minh họa: Bệnh viện cung cấp© Được VnExpress cung cấp

Phó giáo sư Minh Kỳ cho biết khoảng 50% các trường hợp phát hiện rối loạn tiền đình ngoại biên (ở tai), nhưng nhiều người lầm tưởng rối loạn tiền đình là bệnh ở não nên tự bổ sung thuốc bổ não. Một số người đi châm cứu vì nghĩ có thể kích tuần hoàn máu não, cải thiện chóng mặt, rối loạn tiền đình. Tuy nhiên, nằm giường đá massage hay xoa bóp, bấm huyệt cũng không thể chữa khỏi rối loạn tiền đình ngoại biên.

Các chuyên gia khuyến nghị các loại thuốc hay các bài tập phục hồi chức năng tiền đình có thể có tác dụng với người này, nhưng lại ít hiệu quả với người khác. Tự ý sử dụng thuốc hay tập luyện sai cách không có sự hướng dẫn của chuyên gia có thể gây ra tác dụng phụ nguy hiểm, khiến bệnh nặng hơn.

Khánh Ngọc

* Tên bệnh nhân đã được thay đổi

Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2024

Tặng bạn 7 câu nói làm động lực cho năm mới

 1. Trước cô đơn là hoang mang, sau cô đơn là trưởng thành.

2. Ước mơ không phải là món trang sức để phô trương, mà là sự thực hành nghiêm túc trong thầm lặng. Khi gặp gió thuận, hãy sải cánh bay, khi trời bão giông, tự lui để tránh nạn. Hẹn gặp bạn trên bầu trời trong xanh vào độ tuổi đẹp nhất.

3. Thản nhiên nghĩa là không còn sợ hãi trước sự đánh giá của người khác. Bởi vì biết rõ bản tâm của mình, không cần tức giận khi người khác phê bình, không phải rụt rè khi người ngoài khen tặng.

4. Theo đuổi một nghề nghiệp không nhất thiết phải có chức tước, danh hiệu mới đánh giá được sự thành công. Nếu bạn yêu thích một thứ, bạn nghiêm túc theo đuổi nó, bạn thành thạo và đạt được niềm vui, sự phát triển bản thân từ công việc đó, vậy đã là thành công.

5. Nếu bạn đang ở độ tuổi đôi mươi, đừng cố gắng để có "cuộc sống ổn định". Thu nhập thất thường cũng không sao, thất tình là chuyện nhỏ, vất vả, mất ngủ vài bữa vẫn chịu được... Quan trọng là học được tinh thần kiên cường và dấn bước. Bởi vì phản ứng khi chịu áp lực sẽ trở thành một khả năng, nếu bạn quen với sự dễ dãi ở tuổi đôi mươi, bạn sẽ khó có được một tương lai tuyệt vời trong phần đời còn lại.

6. Tôi đã thấy nhiều người "già" khi mới ngoài 20. “Già” không phải là suy giảm chức năng thể chất mà là tâm lý "chịu đựng", thu mình trong sự lặp lại đơn điệu ngày này qua ngày khác, không còn tò mò về những điều mới mẻ, không còn ước mơ, không còn muốn thử thách tiềm năng của bản thân.

7. Thật ra, được sống thực sự là một điều đẹp đẽ, không phải vì quang cảnh tráng lệ hay đầy đủ vật chất, mà là vì bạn đã gặp được người cần gặp, được sưởi ấm và truyền tình yêu thương, để rồi bạn hy vọng một ngày nào đó chính mình sẽ trở thành mặt trời nhỏ sưởi ấm cho người khác.            

🍀Tu tâm cho tốt thì đời thong dong